Ads 468x60px

.

Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2012

NGUYỄN CÔNG HOAN CÂY BÚT HIỆN THỰC XUẤT SẮC - LỜI NÓI ĐẦU - LỜI NGƯỜI BIÊN SOẠN


Mời nghe đọc tại Trung Tâm Vì Người Mù Sao Mai - Người đọc: Nguyên Lộc.



NGUYỄN CÔNG HOAN CÂY BÚT HIỆN THỰC XUẤT SẮC


LỜI NÓI ĐẦU

 

Nguyễn Công Hoan (1903-1977) là nhà văn hiện thực xuất hiện sớm, "là người đặt những viên gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam”. Sự nghiệp của ông được tạo dựng trong chiều sâu bằng hàng trăm truyện ngắn và hàng chục pho tiểu thuyết, nổi lên với những tập truyện Kép Tư Bền và tiểu thuyết Bước đưòng cùng có nhiều giá trị mang tính mở đường cho một dòng văn học. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là một sử liệu sống chân thực và sinh động về xã hội Việt Nam phong kiến nửa thuộc địa những năm đầu thế kỷ XX.
Ngay từ khi xuất hiện, Nguyễn Công Hoan luôn gây được sự chú ý, quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và nhiều thế hệ độc giả. Mặc dù có rất nhiều ý kiến khác nhau, kẻ khen, người chê... song "truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn Công Hoan sừng sửng tạo thành một thế Tam Đảo, Ba Vì hùng vĩ" (Tô Hoài).

Nhân kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn (1903-2003), Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin trân trọng giới thiệu cuốn Nguyễn Công Hoan - cây bút hiện thực xuất sắc (tái bản có biên soạn bổ sung).

Cuốn sách gồm 2 phần:
Phần I: Nguyễn Công Hoan - Nhà văn hiện thực lớn, bậc thầy truyện ngắn trào phúng.
Phần II: Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan - Những thành công và đóng góp.
Ngoài ra còn có Niên biểu và tác phẩm Nguyễn Công Hoan để bạn đọc tham khảo.
Với dung lượng hạn chế của cuốn sách và mục đích muốn khẳng định những đóng góp,vị trí của nhà văn trong nền văn học Việt Nam, chúng tôi không thể trích in, giới thiệu toàn bộ những đánh giá của các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình... Quả thật, Nguyễn Công Hoan đã để lại cho hậu thế một di sản đồ sộ và quý báu vô cùng. Đặc biệt là truyện ngắn, thể loại thành công nhất của ông. Đúng như GS Phan Cự Đệ đã nhận xét: "Nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan đã trở thành những tác phẩm văn học "cổ điển" trong chương trình của các nhà trường phổ thông và đại học. Nguyễn Công Hoan đã gây được một ảnh hưởng sâu đậm với những thế hệ văn xuôi về sau... "
Cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế. Rất mong được bạn đọc lượng thứ.



NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN






LỜI NGƯỜI BIÊN SOẠN

 

Nguyễn Công Hoan, nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam. Ông bắt đầu viết văn từ năm 1920 và đã đạt được nhiều thành công trong cuộc đời văn nghiệp.
Trải qua sự sàng lọc của thời gian và lòng người, Nguyễn Công Hoan đã tạo nên một thế đứng vững vàng trong văn mạch Dân tộc. Đến nay đã có hàng chục công trình nghiên cứu và nhiều bài viết về ông (kể cả của những người nước ngoài), khai thác, tìm hiểu nhiều góc cạnh, nhiều tầng vỉa trong cái di sản lớn ông để lại.

Với mục đích cung cấp cho bạn đọc những tư liệu cần thiết để ghi nhận những đóng góp quý báu của một nhà văn hiện thực thế hệ mở đường - nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903-2003) - chúng tôi biên soạn bổ sung để tái bản cuốn sách: "Nguyễn Công Hoan - cây bút hiện thực xuất sắc".

Song vói sự hạn hẹp của dung lượng một cuốn sách, chúng tôi không thể chuyển tải được hết hoặc trọn vẹn tất cả các ý kiến, đánh giá về ông, nên chúng tôi xin nghiêng hơn về phần TRUYỆN NGẮN, thể loại sở trường, nơi gặt hái nhiều thành công nhất của nhà văn.

Vì vậy chúng tôi xin phép một số tác giả có bài viết trong cuốn sách này cho phép được lược bớt, trích in theo khuôn khổ và ý nghĩa của cuốn sách.

Chúng tôi rất mong sự lượng thứ và xin trân trọng cảm ơn.



NGƯỜI BIÊN SOẠN


TRÚC HÀ - Một ngọn bút mới - ông Nguyễn Công Hoan


Mời nghe đọc tại Trung Tâm Vì Người Mù Sao Mai - Người đọc: Nguyên Lộc.



NGUYỄN CÔNG HOAN CÂY BÚT HIỆN THỰC XUẤT SẮC
Phần I: Nguyễn Công Hoan - Nhà văn hiện thực lớn, bậc thầy truyện ngắn trào phúng.


MỘT NGỌN BÚT MỚI -
ÔNG NGUYỄN CÔNG HOAN

TRÚC HÀ

 

Từ mục "Xã hội ba đào ký" xuất hiện trên mặt Annam tạp chí thì những ai là độc giả tất đã nhận thấy một ngọn bút mới: ngọn bút ông Nguyễn Công Hoan.
Trong mục ấy, ông chép những cảnh ba đào trong xã hội, lối viết văn theo thể tiểu thuyết, ngoài ra ông còn soạn nhiều bài đoản thiên tiểu thuyết khác.
Không réo rắt như một khúc đàn, không nhẹ nhàng như một bài thơ, không "man mác như gió thổi mặt nước", không "bóng bẩy như cành hoa trong gương”, văn ông có cái hay, rõ ràng, sáng sủa, thiết thực, hơi văn nhanh và gọn. Lời văn hàm một giọng trào phúng, lại thường hay đệm vào một vài câu hoặc một vài chữ có ý khôi hài, bông lơn thú vị. Như trong bài Oẳn tà roằn, Annam tạp chí số 12 - kể cái lo của một đôi tình nhân khi quá cả nể:
"Hai vẻ mặt cùng lo, nhưng hai cái lo khác nhau. Ả thì lo vì quá nhẹ dạ, nên phải nặng lòng, cái khối lo nó nằm co ở trong bụng. Cậu P.H lo vì vô tình định thoả bụng muốn, bây giờ phải cố tình đẩy cái không muốn ra".
Hay tả bộ dạng anh kéo xe:
"Anh xe kéo giờ, cho nên cũng chỉ chạy "dưỡng lão" thôi, đít nhổm mạnh mà bước ngắn, vì thì giờ là tiền bạc, chậm phút nào tiền phút ấy."
Người ngựa và ngựa người (Nam phong số 18)
Hoặc là cười một anh học trò biếng học mà mê gái như trong bài Bố anh ấy chết:
"Thi đến nơi rồi mà anh chẳng lo lắng gì cả, chỉ nay trả lời cái thư tim tím, mai học thuộc cái thư hồng hồng".
(Annam tạp chí số 29)
Ấy đại khái những bài văn đã đăng trong Annam tạp chí trước sau đều có ý khôi hài, giọng trào phúng như thế dầu là câu chuyện nó thương tâm thế nào, trong khi đọc văn cũng phải buồn cười, nhưng mà cái cười đắng cay chua chát, theo sau nụ cười thường là cái buồn ngấm ngầm trong tâm hồn. Như bài Ngựa người và người ngựa, kể "cái vết ba đào của cảnh
phu xe trong kiếp ngựa người, tình cờ bị vạ lây với cái bước ba đào của cảnh giang hồ trong kiếp người ngựa..." đọc qua rất lấy làm buồn cười, đọc xong lại thấy cảm động vô hạn. Tiếc rằng không thể trích lấy một đoạn nào được, chỉ phải đọc trọn bài mới lĩnh hội hết lý thú, cái lý thú ở trên lời nói của các nhân vật trong truyện, lối văn vấn đáp viết được tự nhiên linh hoạt lắm, hoặc giọng nói nghiêm trang hoặc lả lơi, hoặc nài nỉ hay mắng mỏ, giọng nào ra giọng ấy, người nào ra người ấy như đứng trước cảnh thực vậy.

Ông có xuất bản quyển Kiếp hồng nhan, một tập đoản thiên tiểu thuyết mà Kiếp hồng nhan là câu chuyện đầu, trong ấy có nhiều bài như: Sóng vũ môn, Tri kỷ trần ai, Không biết sướng... ngụ ý sâu xa về sự đời, truyện đọc có hứng thú lắm.



(Trích trong bài "Lược thảo về sự tiến hóa của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết", Nam phong, tháng 7-1932)






Nam phong 176, tháng 9/1932, tr 38-39/120 (246-247)

NHƯ PHONG - Một nhà văn xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê phán


Mời nghe đọc tại Trung Tâm Vì Người Mù Sao Mai - Người đọc: Nguyên Lộc.



NGUYỄN CÔNG HOAN CÂY BÚT HIỆN THỰC XUẤT SẮC
Phần I: Nguyễn Công Hoan - Nhà văn hiện thực lớn, bậc thầy truyện ngắn trào phúng.


MỘT NHÀ VĂN XUẤT SẮC CỦA DÒNG VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN

NHƯ PHONG

 

Nguyễn Công Hoan bắt đầu cầm bút viết vào khoảng những năm 1920 - 1923 và bắt đầu tự khẳng định được mình một cách mạnh mẽ và vững chắc vào khoảng từ những năm 1929 - 1931 trở đi.
Trong thời gian này, văn học nước ta đang có những chuyển biến, tìm tòi bước đầu để tự đổi mới cho phù hợp với những nhu cầu mới về tư tường và tình cảm của xã hội. Nhiều khuynh hướng văn học đã xuất hiện. Lẽ tất nhiên dưới chính sách văn hoá nô dịch và ngu dân, dưới các thủ đoạn đàn áp tư tưởng và ngôn luận của thực dân Pháp, văn học yêu nước công khai của nước ta hồi ấy không thể tự do phát triển như nó đã phải và có thể phát triển... Và cũng tất nhiên, mỗi nhà văn tuỳ theo bản chất giai cấp của mình, tuỳ theo quá trình tiếp thu những gì của cuộc sống và của các ý thức hệ đương thời, tuỳ theo cả thái độ chính trị đối với chế độ thực dân và phong kiến mà tự chọn khuynh hướng này hay khuynh hướng khác.

Ngay từ buổi đầu cầm bút, Nguyễn Công Hoan đã tự vạch cho mình một con đường đi, một con đường không phải ngay từ đầu đã rõ nét ngay và cả về sau này không phải là không có những lúc chệch choạc, nhưng căn bản là một con đường tích cực tiến bộ nhất so với tình hình văn học công khai nước ta hồi ấy - trước khi Đảng ta phát biểu và đấu tranh cho một đường lối văn nghệ chính xác, phù hợp với yêu cầu của Cách mạng và yêu cầu phát triển của bản thân văn nghệ.

Ngay từ trong một số truyện ngắn đầu tiên của anh, Nguyễn Công Hoan đã chú ý lấy đề tài trong những chuyện đáng cười, đáng khinh, đáng ghét và đáng thương trong xã hội lúc bấy giờ và qua suốt hàng mấy trăm truyện ngắn, vài chục truyện dài mà anh viết về sau này, đó là loại đề tài hầu như duy nhất mà anh theo đuổi và ngày càng mở rộng phạm vi quan sát, đối tượng miêu tả và nội dung đả kích... Hiện thực xã hội nước ta dưới chế độ thực dân và phong kiến có thiếu gì những chuyện như vậy! Chuyện những quan lại lớn nhỏ mà bọn thống trị thực dân cất nhắc lên từ đủ mọi nguồn bẩn thỉu để làm tay sai thu thuế, đốc phu, bắt lính cho chúng, đối với quan trên thì hết sức quỵ luỵ, cúi luồn, hầu hạ, nhưng đối với dân đen thì ra oai hống hách, ức hiếp bóp nặn, đục khoét không từ thủ đoạn bất nhân nào không làm...
Chuyện những địa chủ hoặc tư sản làm giàu bằng bóc lột hay lừa bịp, mà lại hiếu danh, bỏ ra hàng nghìn, hàng vạn để mua một phẩm hàm, một chức "nghị gật" thì chẳng tiếc, nhưng tính toán với người cấy rẽ, làm thuê trong nhà hay những người khốn khó vay nợ, đợ con thì so kè từng xu một... Chuyện những công chức "làm việc tây", bị "sếp" làm nhục, hay quá nữa lại còn phải đưa vợ con đến cho chúng làm nhục, nhưng vẫn cúi đầu bưng tai nuốt nhục, vì sợ mất việc, vì sợ "sếp" đã thành một thiên tính thứ hai trong người... Còn biết bao nhiêu chuyện như vậy, còn bao nhiêu chuyện xấu xa độc ác hèn hạ, thảm hại hơn vậy nữa mà người đương thời thấy xảy ra hằng ngày, chung quanh mình, trước mắt mình, bất cứ chỗ nào cũng có... Đó là những chuyện có thật và không thể nào không xảy ra vì chúng nằm ngay trong bản chất, trong quy luật của chế độ thực dân phong kiến chuyên sống bằng cướp đoạt, áp bức và gian trá...

Nguyễn Công Hoan đã dùng ngòi bút của mình vạch toạc tất cả những sự thật ấy ra, những sự thật đen tối của một chế độ xã hội tàn nhẫn và mục nát đến xương tuỷ, những sự thật mà nhiều người có thể biết nhưng chưa nhận thức hết cái tính chất vô đạo, bất nhân của nó. Anh thiên về lối kể chuyện hài hước và trào phúng, do vậy ngòi bút phê phán và tố cáo của anh lại càng lợi hại hơn. Cái cười mỉa mai khinh bỉ có sức công phá mạnh hơn là những lời kêu ca than vãn, đánh mạnh vào cái chế độ độc ác nhưng lại mơn trớn, đểu cáng, giả đạo đức.

Nếu như hồi đầu việc lựa chọn đề tài của anh còn có vẻ phân tán, còn nhằm cả vào những con người tuy có lố lăng buồn cười, nhưng xét ra chẳng có tội tình gì mà chỉ đáng thương hại, thì càng về sau nó càng tập trung vào những hạng người thực sự đáng khinh, đáng ghét, đáng thù trong xã hội bây giờ. Anh đặc biệt chú ý đến bọn quan lại làm tay sai cho Pháp, mà nhờ có hoàn cảnh riêng, anh đã có dịp quan sát, nghiên cứu kỹ từ đời công đến đời tư, từ diện mạo, cử chỉ bề ngoài đến tâm lý bên trong. Qua các tác phẩm của anh, người ta có thể lập một bảng liệt kê chi tiết các hạng quan tham lại nhũng, đủ các hạng lớn nhỏ của cái loại sâu bọ nhơ nhớp dựa vào thế đế quốc để hút máu hút mủ đồng bào. Mà anh nhằm vào hạng người ấy làm một đối tượng đả kích chủ yếu cũng là đúng thôi: đó là những công cụ đắc lực nhất của đế quốc Pháp để đàn áp, khủng bố, bóc lột nhân dân ta...

Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1935 - 1939, Nguyễn Công Hoan có dịp được gần gũi phong trào cách mạng của quần chúng và gặp gỡ một số chiến sĩ cách mạng. Ảnh hưởng của cách mạng vào sâu trong anh thế nào và gây được những biến chuyển về nhận thức và tư tưởng ở trong anh thế nào, nhà văn của chúng ta đã từng kể lại. Rõ ràng là nó đã có tác động quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của anh. Chính trong thời kỳ này mà anh đã viết được nhiều truyện ngắn xuất sắc và tiểu thuyết Bước đường cùng.
Không có phong trào của nông dân lao động đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng, chống địa chủ và quan tham lại nhũng trong thời kỳ cách mạng ấy, thì nhà văn của chúng ta cũng khó có đầy đủ chất liệu và nhận thức để viết nên một tác phẩm có giá trị phê phán và tố cáo mạnh mẽ như vậy.

Nguyễn Công Hoan, cùng với Ngô Tất Tố là những nhà văn xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực phê phán. Trước cách mạng, cái khuynh hướng văn học giàu tính chiến đấu này chưa phải là cách mạng, nhưng rất gần với cách mạng, đóng góp được nhiều cho cách mạng. Bọn thống trị thực dân và phong kiến hồi ấy, trong khi giở ra đủ thủ đoạn tàn bạo để bóc lột, áp bức dân tộc ta, trong khi áp đặt lên đầu nhân dân ta một chế độ xã hội vừa độc ác lại vừa thối nát vẫn không ngớt tìm đủ cách che đậy bộ mặt thật của chúng bằng nhiều hình thức man trá, lừa bịp, mê hoặc, trong đó có thứ "văn học" của bọn bồi bút chuyên tán tụng, quảng cáo cho "nhà cầm quyền". Hồi ấy, vạch trần những sự thật của chế độ ấy, gây cho người ta lòng khinh bỉ, ghê tởm, căm ghét đối với chế độ ấy, khiến cho người ta không thể nào chịu đựng, chung sống được với nó chính là một sự cần thiết, là một trong những công việc chuẩn bị về nhận thức và tinh thần cho cách mạng. Một số lớn tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, khi đi vào quần chúng, đã đạt được những hiệu quả cách mạng này.
Ngay từ khi sự nghiệp văn học của nhà văn Nguyễn Công Hoan đương trong thời kỳ phát triển, Đảng đã đánh giá đúng giá trị và tác dụng của anh. Một trong những nhà lý luận văn nghệ đầu tiên của Đảng, anh Hải Triều, đã giới thiệu tập truyện Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan và nhân đó phát biểu quan điểm văn nghệ của Đảng. Từ đó, Đảng luôn luôn ân cần theo dõi, biểu dương và khi cần thiết phê bình, giúp đỡ nhà văn Nguyễn Công Hoan trong sự nghiệp sáng tác của mình.
Từ khi bắt đầu viết văn đến nay, vừa đúng trong một nửa thế kỷ, Nguyễn Công Hoan đã sáng tác không mỏi, không ngừng, nếu một tấm gương về tinh thần trách nhiệm của một nhà văn trước xã hội, về tinh thần lao động nghệ thuật cần cù và bền bỉ.

(In trong báo Nhân dân số 6008,
Chủ nhật, ngày 25-3-1973)


VŨ NGỌC PHAN - Nguyễn Công Hoan và những truyện ngắn của anh


Mời nghe đọc tại Trung Tâm Vì Người Mù Sao Mai - Người đọc: Nguyên Lộc.



NGUYỄN CÔNG HOAN CÂY BÚT HIỆN THỰC XUẤT SẮC
Phần I: Nguyễn Công Hoan - Nhà văn hiện thực lớn, bậc thầy truyện ngắn trào phúng.



NGUYỄN CÔNG HOAN
VÀ NHỮNG TRUYỆN NGẮN CỦA ANH

VŨ NGỌC PHAN

 

Sau khi cùng học lớp nhất tiểu học trường Bưởi. Hoan và tôi đi học tại hai trường khác nhau. Tôi rất nhớ Hoan, nhưng không biết cậu ta trọ học ở phố nào. Khi còn học ở trường Bưởi, có lần Hoan bảo tôi:
- Mày thì nghịch ngầm, còn tao vừa nghịch ngầm vừa nghịch bừa trước mắt thiên hạ.
Hồi nhỏ, hai thằng thích chơi với nhau có lẽ vì có mặt giống nhau như vậy.
Vào trường Nam Sư phạm phố cửa Bắc năm 1922 thì năm sau, Hoan đã có một quyển sách ra đời: Quyển Kiếp hồng nhan. Có được quyển sách để ra mắt với đời năm 1923 là hiếm lắm. Lúc bấy giờ chữ in còn có một sức mạnh ghê gớm. Chỉ nhìn thấy quyển sách in, chứ chưa đọc thấy nửa chữ, người ta đã phục lăn tác giả ra rồi. Vào những năm 20 của thế kỷ này, viết báo là viết văn. Viết văn, viết báo là một, vì văn muốn có người ta đọc thì chỉ có cách đăng lên báo. Loại sách, món ăn tinh thần, gần như không có. Ấy thế mà anh chàngHoan ta lại ra được một quyển sách, một tập truyện ngắn. Ông Tản Đà ra được quyển Khối tình con năm 1916 cũng là tự xoay lấy tiền và đi tìm lấy nhà in. Bìa sau quyển Khối tình có vẽ
một anh chàng rụt cả cổ lại để gánh hai túi sách đi bán rong Tản Đà có bài thơ đề:
Khối tình con (quyển nhất), trong câu có:
...Còn non, còn nước, còn trăng gió,
Còn có câu thơ ca bán phố phường.
Thật ra thì những truyện ngắn trong Kiếp hồng nhan đã qua một "kiếp" rồi, tức là đã in năm 1922 trong hai Truyện thế gian của Nguyễn Khắc Hiếu, rồi năm 1923 Hoan mới rút ra để in thành một quyển riêng.
Xa nhau khá lâu, một hôm, vào năm 1925, tình cờ tôi gặp Hoan ở Bờ Hồ. Anh vẫn xúng xính trong cái áo the thâm và lê đôi giày Gia Định. Hoan hồng hào, rắn rỏi, những lông tơ xanh xanh ngày xưa trên mép anh bây giờ đã đen đen. Tôi khen Hoan chịu khó viết lách. Anh cười hê hê và vẫn cái lối hồi còn bé, anh rỉ vào tai tôi:
- Ấy mình viết là do một chuyện rất lạ.
- Không phải tiểu thuyết đấy chứ? - Tôi hỏi anh.
Hoan cười xoà, kể cho tôi nghe:
- Nguyên ở làng mình có một người con gái trạc tuổi mình, con nhà thi lễ. Năm mình và cô ta mới sáu bảy tuổi mà cả làng đã yên trí là lớn lên mình sẽ lấy cô ta làm vợ. Đến nỗi vài người trong gia đình cô ta cũng tin như thế. Nhưng sự thực thì thầy mẹ mình không có ý định ấy. Rồi lớn lên, cô ta đi làm dâu một ông quan to. Chồng cô ta cứ ít lâu lại tuồn ra một bài thơ. Hãnh diện về nhà chồng và về chồng, cô ta đem thơ của chồng về nhà cô ta và đọc cho mọi người nghe...
Kể đến đây, Hoan ngừng lại và cười ngất.
Tôi hỏi anh, thơ của chồng cô ta như thế nào, có hay không, thì Hoan giơ tay lên, giả vờ bịt mũi và đọc:
...Hoa có tàn hoa ủ mấy thu,
Thương ôi! Mây khói mịt mù...
Bừng con mắt, biết tiêu du cảnh nào!

Hoan lại nói cho tôi biết anh chàng "thi sĩ" này khi nói chuyện với Hoan, cứ tỏ ra "ưu thời mẫn thế" nên Hoan có làm một bài ca trù để chế giễu, và Hoan đọc cho tôi nghe. Bài khá ngộ nghĩnh, lúc ấy tôi có chép vào sổ tay.
Lo gì lo lắm,
Vắt tay nằm trên trán để mà lo.
Lo đủ điều lo nhỏ lại lo to,
Lo đến hết thở dài, rồi thở vắn,
Lo nước bể Đông ngày dãi nắng
Lo Vưòn Con Cóc khuyển làm thơ
Lo để mặt méo xệch, chân cẳng quắp co,
Lo đến cả con bò răng vẫn trắng.
Thế mới biết cái lo là lắng đắng,
Khách đa sầu gánh nặng những điều lo.
Ai ơi, lo lỏ lò lo...


Đọc xong bài ca trù, Hoan nói:
- Làm thơ kiểu thằng cha ấy thì mình có thể suy ra hàng tràng. Nhưng mình không thèm làm. Mình sẽ viết văn xuôi và nhất định phải hơn nó, cho vợ nó mất làm bộ.
Từ lần ấy, bẵng đi mười năm chúng tôi lại không gặp nhau. Hỏi thăm biết Hoan làm giáo học ở Kinh Môn và vẫn viết. Tôi viết thư nhắn Hoan về chơi Hà Nội, không nhận được trả lời, tôi yên trí Hoan phải ở liền nơi dạy học, không rút chân đi đâu được. Bỗng một hôm, vào mùa hè năm 1935, Hoan ăn mặc Tây chỉnh tề, ôm cái cặp da to phồng, bước vào nhà tôi. Từ ngày từ giã trường Bưởi, thấm thoát đã 15 năm. Chúng tôi đều có vợ con cả. Gặp Hoan lần này là lần đầu, Hằng Phương có vẻ lấy làm lạ. Con người củ mỉ cù mì như vậy mà sao viết truyện lại sắc sảo và dí dỏm như thế. Tôi ngỏ ý muốn anh về dạy ở Hà Nội, để anh em năng gặp nhau, thì anh cho tôi biết anh khó mà về Hà Nội được. Cứ viết về bọn quan lại, về bọn tổng lý cường hào và thực dân thì Nha học chính nó còn tống anh đi các tỉnh xép mãi, có khi còn lên mạn ngược.
Từ nhỏ anh đã biết nhiều về những thối nát của bọn quan lại. Cụ Huấn thân sinh ra anh đã kể cho anh nghe rất nhiều về những chuyện ấy. Cách sống đồi trụy của bọn quan lại, bọn hàn nghị, những thói xu nịnh của chúng đối với quan thầy Tây, những mánh khóe bòn hút nhân dân của chúng, anh kể cho tôi nghe tỷ mỉ. Nhờ biết được những chuyện như vậy, nên
tôi đã viết được vài bài về những cảnh khổ cực của người nông dân Việt Nam dưới nhanh vuốt của bọn quan nha và tổng lý, tay sai của thực dân Pháp, đăng trên những số đặc biệt của báo L’EFFORT INDOCHINOIS vào năm 1939, 1940 theo yêu cầu của tờ báo này.
Nguyễn Công Hoan nói động cơ viết của anh lúc đầu là một chuyện tình duyên, nhưng theo tôi nghĩ thì anh viết được trước hết là do bản thân anh có khả năng, có tích luỹ về văn hóa, về cuộc sống. Tôi biết anh rất nhạy cảm, có cái nhìn sâu về cuộc đời, có trí nhớ dai, lại lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước. Dân tộc Việt Nam ta có nhiều gia đình nho sĩ bậc trung có lòng yêu Tổ quốc và ghét phi nghĩa. Khi có phong trào khởi nghĩa thì họ là người sẵn sàng hưởng ứng, sẵn sàng ủng hộ. Có nhiều gia đình nho sĩ ở nông thôn rắt gần với nông dân và đã có một số người trong các gia đình ấy là tác giả những văn thơ yêu nước, những bài ca, bài vè chống quan lại tham ô, chống thực dân Pháp. Cũng lại chính ở những gia đình ấy người ta đã nghe được một cách thầm kín những thơ văn khuyết danh chế giễu những "quan đại thần" ôm váy cho "đầm, xách giày cho Tây, những bài ca về phong trào Đông du và những bài vè đánh giặc Pháp xâm lược. Nhiều người trong đám nhà nho ấy cũng ra làm những chức quan nhỏ để sinh sống, nhưng trung thành với "nhà nước bảo hộ" thì không. Đó là một trong nhiều đặc điểm của dân tộc ta, nên ở nhiều thời kỳ lịch sử của dân tộc, cả nước đã đứng lên chống ngoại xâm, tầng lớp trí thức cũng như nhân dân lao động, đều một lòng đánh giặc cứu nước, chỉ một thiểu số theo giặc và cuối cùng bị tiêu diệt.
Chính ở trong gia đình mình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe những câu thơ, câu đối đả kích những kẻ quan thì to nhưng tài đức thì lại quá nhỏ. Thí dụ những loại câu như câu về một "quan đại thần" nọ đập đầu lạy vua để con được đỗ tiến sĩ và chị tên khoa bảng thì ra vào công sứ để em được bổ nhiệm:
Em nên khoa mục, cha mòn trán
Em được công danh, chị nát đồ


Và câu của Trần Tán Bình về mụ Tư Hồng vợ Tây và bố mụ được sắc phong:
Một đạo sắc phong hàm cụ lớn
Trăm năm danh giá của bà to


Nguyễn Công Hoan thuộc rất nhiều câu loại trên này, và cũng rất nhiều giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm. Những thơ ca và giai thoại này có ảnh hưởng sâu sắc đến lối viết của anh, một đặc điểm Việt Nam, tuy là văn xuôi mà rõ ràng kế tục dòng Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương về cách nhìn con người và cách đánh giá mọi việc trong xã hội.

Hồi mới bước vào nghề văn, Nguyễn Công Hoan đã tích lũy được nhiều vốn về xã hội đương thời, về văn hóa văn nghệ truyền thống, phần nhiều là truyền miệng; anh lại có một kỹ thuật khá độc đáo về miêu tả con người và sự việc, nhưng trong bước đầu anh cũng long đong như nhiều nhà văn khác.
Kiếp hồng nhan (viết năm 1921 và in thành sách năm 1923) quyển sách đầu tay của anh, ra đời vào buổi bình minh của văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ, nên anh đã cặp kè được với Nguyễn Khắc Hiếu. Những truyện ngắn của Phạm Duy Tốn như Sống chết mặc bay và Con người Sở Khanh cũng chỉ mới đăng trong một tạp chí, tạp chí Nam Phong, vào những năm 1918 và 1919, trước Nguyễn Công Hoan có vài năm. Nhưng vào thời ấy, những người chú ý đến truyện ngắn cũng không nhiều và họ cũng chưa đánh giá được đúng. Tôi đọc An Nam tạp chí để theo dõi công việc viết văn của Hoan, vì tôi nghe nói Hoan có viết cho tạp chí này, nhưng đọc Annam tạp chí, tôi thấy ngấy quá. Một hôm, tôi đọc một bài của Tản Đà và thấy ông khen Nguyễn Công Hoan làm thơ hay. Đó là câu vịnh Ông Táo của Hoan:
Thân tớ ví không lành tựa đất,
Cuộc đời hồ dễ đã ra tro.


Tôi tự nghĩ: "Quái cậu ta bảo mình là cậu ta sẽ viết văn xuôi, sao bây giờ lại đi làm thơ! Hay cậu ta viết văn xuôi bí rồi?".
Hoan đi với Tản Đà, nhưng chính Tản Đà cũng long đong. Annam tạp chí của Tản Đà ra đời năm 1926, in được mười ba số thì chết. Tản Đà phải vào Nam theo lời mời của Diệp Văn Kỳ.
Năm 1928, Hoan ở gần Nguyễn Trọng Thuật, ông này đem một đống Nam phong về nhà. Hoan vùi đầu vào đọc. Sau khi đã bỏ viết bảy năm, bây giờ anh lại ngứa nghề cũ. Anh viết Những cảnh khốn nạn, nhưng viết xong, không biết đăng vào đâu.
Năm 1931, Tản Đà lại ra Bắc và cho Annam tạp chí sống lại. Muốn cho tại chí của mình hấp dẫn, nhà thơ mở hai mục: "Việt Nam nhị thế kỷ xã hội ba đào ký" và "Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội thiển đàn". Tản Đà tưởng lúc nào Nha học chính Bắc kỳ cũng đẩy Nguyễn Công Hoan đi thật xa, nên ông vội mua vé xe hoả đi Lào Cai để tìm Hoan, nhưng lên đến cái tỉnh giáp giới Trung Quốc, ông không tìm thấy Hoan ở đâu cả. Thì ra lúc đó, Hoan đang dạy học ở Kinh Môn.
Tản Đà mời Hoan giúp Annam tạp chí, viết về những "cảnh xuống" của xã hội Việt Nam. Hoan viết truyện ngắn Hai thằng khốn nạn và Oẳn tà roằn đăng vào mục "Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký". Trừ Kiếp hồng nhan in thành sách, còn từ 1928 đến 1931, truyện ngắn của anh đều chỉ đăng tên các báo chí: đầu tiên đăng ở Annam tạp chí, rồi ở Nhật Tân và về sau ở Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san. Tuy vậy những sáng tác của anh đã được một người ký biệt hiệu là Trúc Hà giới thiệu trong tạp chí Nam Phong (tháng 7 năm 1932). Đây cũng là một sự hiếm có. Thường thường tác phẩm văn học đăng trên báo chí ít khi được có người giới thiệu, phê bình.

Năm 1932, tập truyện dài Những cảnh khốn nạn của anh được in thành sách, nhưng không có lấy một tiếng vang. Từ tập truyện Kép Tư Bền (do Tiểu thuyết thứ bảy xuất bản và in tại Tân Dân năm 1935) Nguyễn Công Hoan mới bắt đầu nổi tiếng. Hải Triều, một trong những nhà lý luận văn nghệ đầu tiên của Đảng đã đánh giá cao tập truyện. Trong truyện Kép
Tư Bền, anh đã miêu tả những mánh khoé bóc lột rất tinh vi của tên chủ gánh hát và cái mâu thuẫn chua cay của cuộc đời vui nhộn bên ngoài với cái bi kịch ngấm ngầm bên trong. Ngoài cái truyện mang tên tập này, còn những truyện ngắn khác cũng sâu sắc. Đó là những truyện: Thằng ăn cắp, Samandji, Mất cái ví, Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn...

*
*  *

Từ năm 1935 cho đến 1940, cứ đến nghỉ hè là Nguyễn Công Hoan lại về chơi với tôi. Bao giờ anh cũng vẫn ôm cái cặp da phồng trong để ít quần áo và một số bản thảo. Anh ở chơi với tôi ba, bốn ngày có khi dăm ngày. Anh đến với chúng tôi như một người trong gia đình. Vừa trông thấy anh ngoài ngõ mấy đứa con của chúng tôi còn ngọng đã reo lên: "Bác
Hoang! Bác Hoang!". Vợ chồng tôi coi anh như một người anh của mình mới ở quê ra. Tôi nói: "Ở quê ra" không phải nói ngoa. Tôi vốn người Bắc Ninh, còn anh Hoan, cho đến bây giờ, cũng vẫn cứ nhận mình là người tỉnh Bắc, tuy Xuân Cầu quê anh thuộc Văn Giang và Văn Giang thì đã thuộc Hưng Yên (Hải Hưng) từ lâu rồi.

Đời viết văn của Nguyễn Công Hoan là một đời viết văn gương mẫu. Cảnh nhà thanh bạch, trong gia đình hết người này bị bắt đến người kia bị bắt, bọn mật thám thỉnh thoảng lại xông đến khám nhà, toà kiểm duyệt Pháp lúc nào cũng như trói tay người viết, nhưng anh vẫn luôn luôn say sưa với nghề nghiệp, không lúc nào nao núng. Thời gian anh hay đến chơi với tôi (1935-1940) cũng là thời gian anh hay đến ăn nằm ở nhà Tân Dân để vay trước "Vũ Đình Long tiên ông" ít tiền. Rồi về một tỉnh xép, đêm đêm dưới ánh đèn dầu anh khom lưng ngồi viết để trả nợ "tiên ông".

Câu chuyện của anh với chúng tôi phần nhiều là giai thoại và những chuyện éo le ở đời. Những chuyện này có thể là đề tài cho những truyện ngắn của anh, tôi nghe cũng rất thú vị. Phần nhiều nó có những cái đột ngột, ngẫu nhiên, đầy kịch tính. Chuyện anh kể rất giản dị, chua cay, điểm những nét vui cười, vừa sâu sắc vừa phong phú.

Anh nói cho chúng tôi nghe những điều tai nghe mắt thấy. Người nông dân Việt Nam rất khổ cực. Ngày thường họ đã khổ; những ngày sưu thuế, những ngày Tết, cưới xin, ma chay, họ còn bị bọn quan nha, cường hào áp bức bóc lột, bị phong tục xưa ràng buộc, họ lại càng cùng cực. Họ không còn cái gì để bán, để cầm, nên họ bán cả con, đem cả bài vị tổ tiên đến nhà địa chủ để cầm, hòng vay mấy đồng bạc, rồi đến tết họ chạy tiền chuộc về.
Câu chuyện ấy tôi thấy về sau anh viết thành một truyện ngắn nhan đề là Chuộc Cụ. Anh kể cho nghe cái hồn nhiên của một cô gái quê và cái tò mò không được "trí thức" của mấy anh tiểu trí thức về ở nông thôn, về sau anh viết thành Cái nồi hông khá dí dỏm.

Anh kể nhiều chuyện nhất về người nông dân, về bọn quan lại và tay sai, thứ đến những người tiểu trí thức, tiểu công chức, bọn tư sản, hàn, nghị và lưu manh, rồi đến bọn thực dân.
Về người công nhân, anh biết ít. Đọc truyện ngắn của anh, tôi nhận thấy đề tài về nông dân và về quan nha, tổng lý là nhiều hơn cả. Anh có quan hệ nhiều với nông dân, vói tầng lớp tiểu tư sản trí thức và bọn hàn, nghị ở những nơi anh dạy học, nên anh nắm rất chắc tính chất những "nhân vật" ấy.
Anh thương xót rất nhiều những gia đình nông dân thất cơ lỡ vận, phải ra Hà Nội kéo xe; anh thương vô cùng những trẻ em ở nông thôn còn ngây thơ, đã phải xa cha mẹ đi ở và bị bọn chủ hành hạ. Đó là truyện Ngựa người và người ngựa, Được chuyến khách, Tấm giấy 100, miêu tả cảnh khổ của những người phu xe, đó là những truyện Thanh! Dạ! Thằng Quýt, Phành phạch phản ánh những cảnh địa ngục của những em nhỏ phải đi ở và những sự đối xử cực kỳ tàn bạo của bọn chủ. Đối với những kẻ lưu manh, anh cũng nhìn với con mắt khác những người đồng thời với anh. Anh đã nhìn thấy những kẻ ấy là nạn nhân của xã hội nước ta dưới ách thực dân Pháp.
Đọc những truyện Giá ai cho cháu một hào, Thằng ăn cắp, Bữa no đòn, ai cũng phải xót thương những trẻ em thiếu ăn, thiếu mặc và chưa bao giờ được bước chân đến nhà trường.

Anh tiếp thu truyền thống dân gian, nên cũng như truyện cười Việt Nam, nhiều truyện của anh có tính chất đấu tranh trong nội bộ nhân dân, hướng sự phê phán nghiêm khắc vào những kẻ có thói xấu, như lười biếng, dốt nát, tham ăn, chuộng hư danh, nịnh hót. Truyện cười Việt Nam chế giễu những ông đồ dốt thì có những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan cũng châm biếm rất chua cay một số người trí thức. Đó là những truyện Tôi chủ báo, anh chú báo, nó chủ báo; Xin chữ cụ Nghè, Ông chủ báo chẳng bằng lòng. Trong truyện Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn, anh phanh phui những tâm tình giả dối của cặp tình nhân tiểu tư sản mà người phụ nữ trai lơ là một gái mới goá chồng đã có một con trai. Truyện Tôi xin hết lòng của anh cho chúng ta thấy một mụ phán chỉ vì một lợi nhỏ là có được cái độn tóc đẹp không mất tiền mua, đã nhẫn tâm cắt luôn mớ tóc đen dài của một cô gái ốm liệt giường mà mẹ cô ta đã nhờ mụ trông giúp một đêm. Ngay đối với thói lười biếng của một số dân nghèo, anh cũng đả kích rất mạnh (truyện Cái vốn để sinh nhai).
Nhưng đối với bọn quan lại, hàn, nghị và cường hào thì anh đả kích không khoan nhượng. Đó là những truyện Hai thằng khốn nạn, Báo hiếu: trả nghĩa cha, trả nghĩa mẹ, Răng con chó... về bọn quan lại, chánh phó lý, Nguyễn Công Hoan miêu tả rất tài tình trong những truyện: Đàn bà là giống yếu, Cái nạn ô tô, Đồng hào có ma, Cụ Chánh Bá mất giầy...
Về những cái kệch cỡm và quan liêu của bọn thực dân, anh vẽ nên bức tranh hài hước trong hai truyện Tinh thần thể dục và Lại chuyện con mèo. Còn về giai cấp công nhân Việt Nam, có lẽ anh chưa chú ý đến mấy, nên anh mới chỉ phác hoạ một chị công nhân mỏ chống đối quyết liệt một tên chủ Tây định hãm hiếp chị, và chị ta đã thắng thế, thoát được tay thằng khốn nạn. Đó là truyện Sáng, chị phu mỏ.

*
*  *

Nguyễn Công Hoan viết rất nhanh, nhưng thật ra mỗi truyện ngắn anh đã phải tập hợp rất lâu những nhận xét của anh về một nhân vật. Rồi những hành động của nhân vật cũng phải được nhuần nhuyễn khá lâu trong tâm trí anh trước khi anh đặt bút viết. Công việc của anh lâu ở suy nghĩ và nhanh ở thể hiện bằng lời văn.

Truyện ngắn viết rất khó. Nguyễn Công Hoan đã đạt tới kỹ thuật cao trong sự miêu tả hiện thực đươg thời. Có nhiều truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan toàn là truyện khôi hài mang những tính chất phóng đại, cường điệu với những yếu tố bất ngờ. Đó là những truyện Samandji, Thầy cáu, Cái lò gạch bí mật, Truyện con mèo.
Lại có những truyện tác giả miêu tả chủ yếu những cảnh truỵ lạc, những sự thối nát, lố bịch trong xã hội cũ, như những truyện Oẳn tà roằn, Lập gioòng, Chồng cô Kếu tân thời, Cái thú tổ tôm, Tinh thần thể dục, nhưng trong đó vẫn có nhiều yếu tố trào phúng. Ở những chuyện thật bi thảm, đôi khi tác giả cũng điểm vào những nét châm biếm và giễu cợt làm cho truyện có tính chất bi hài.

Tuy có mặt này mặt nọ, nhưng nếu so sánh truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan với những truyện ngắn của các tác gia Việt Nam khác, tôi nhận thấy chỉ riêng những truyện ngắn của anh viết trong giai đoạn 1930-1942 cũng đủ đưa anh tới đỉnh cao của nghệ thuật. Nhân vật trong các truyện ngắn của anh thuộc đủ các tầng lớp người trong xã hội Việt Nam vào thời mà chế độ thực dân và nửa phong kiến suy tàn nhất.

Trong các truyện ngắn của anh, gần như không có bóng dáng người công nhân. Nhưng cho đến nay cũng chưa có tác giả Việt Nam nào thể hiện được công nhân nước ta cho tương đối thoải mái không ngượng nghịu, chứ chưa nói đến vẽ nên những nét điển hình. Phải chăng người công nhân nước ta còn mang nhiều tính chất nông dân, tính chất của những con người đã ra đời cùng với đất cổ Việt Nam này, nên khi miêu tả thì "nhân vật công nhân" lại giống người nông dân đến tám, chín phần mười.
Đã có lần đi sưu tầm ca dao và dân ca hiện đại của công nhân, tôi thấy đa số những sáng tác mới ấy vẫn ca ngợi đồng ruộng, luỹ tre đầu làng, và con cò bay bổng, không thấy ai sáng tác về cái ống khói, về nhà máy của mình. Như vậy thì Nguyễn Công Hoan và nhiều tác giả khác cũng không đáng trách.

Từ sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan vẫn viết khoẻ như con người lực lưỡng của anh. Anh đã viết không mệt mỏi trong nửa thế kỷ. Nhưng bây giờ, cũng như nhiều nhà văn khác, trước những quan hệ xã hội mới, anh còn có những cái chưa tìm hiểu sâu được. Nhưng Nguyễn Công Hoan vẫn là nhà văn hiện thực có phong cách đặc biệt, làm cho anh khác hẳn những nhà văn hiện thực đồng thời với anh. Đó là tính chất trào lộng không nhiều thì ít trong hầu hết các truyện ngắn của anh, đó là sự phong phú về đề tài của các truyện, và đặc biệt là trong tất cả các truyện ngắn của anh, thiên nhiên rất ít được miêu tả, vậy mà truyện của anh vẫn hấp dẫn một cách lạ thường, đố ai đọc nửa chừng mà có thể thôi không đọc tiếp.

Tôi nhớ mãi, cách đây trên ba mươi năm, có những đêm anh kể hết chuyện này sang chuyện khác cho tôi nghe. Tôi thì nghe mê mải, còn anh thì cứ kể thao thao bất tuyệt. Rồi về sau tôi lại đọc thấy một số chuyện ấy trong những truyện ngắn của anh trên Phổ thông bán nguyệt san của nhà Tân Dân. Tôi đã có cái cảm tưởng như mình được nếm sống nhiều món ăn anh sắp đem xào nấu, những món ăn, cho đến bây giờ và cả mai sau, chắc chắn mọi người vẫn thấy đầy hương vị.

(In trong tạp chí Tác phẩm mới, số 24, tháng 3-4 năm 1973) 


PHAN CỰ ĐỆ - Nguyễn Công Hoan


Mời nghe đọc tại Trung Tâm Vì Người Mù Sao Mai - Người đọc: Nguyên Lộc.




NGUYỄN CÔNG HOAN CÂY BÚT HIỆN THỰC XUẤT SẮC
Phần I: Nguyễn Công Hoan - Nhà văn hiện thực lớn, bậc thầy truyện ngắn trào phúng.



NGUYỄN CÔNG HOAN

PHAN CỰ ĐỆ

 

Nguyễn Công Hoan là người đã đặt những viên gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho nền văn xuôi hiện thực phê phán. Ông thuộc lớp nhà văn những năm 20 đầu thế kỷ, lớp người đang mò mẫm, tìm đường, khai phá. Công lao của ông là giữa những con đường đan nhau ở các ngã ba, ngã tư, nơi mà những người cầm bút còn đang phân vân, thậm chí cóthể lạc lối giữa những nguồn ảnh hưởng phức tạp, cũ mới tốt xấu lẫn lộn, ông đã chọn con đường đi về phía truyền thống dân tộc, về phía quần chúng bị áp hức, con đường của chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam.
Nguyễn Công Hoan bắt đầu viết truyện ngắn từ cái buổi bình minh của văn xuôi viết bằng quốc ngữ. Năm 1922, ông đã có một số truyện ngắn in vào tập Truyện thế gian của Tản Đà thư cục và một năm sau, ông tự xuất bản tập truyện ngắn Kiếp hồng nhan. Khuynh hướng hiện thực của Nguyễn Gông Hoan được dư luận chú ý từ khi những truyện ngắn của ông (trong thời kỳ 1928 -1931) được đăng dần trong Annam tạp chí của Tản Đà dưới mục Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký. Cho đến năm 1935, ông đã cho ra mắt bạn đọc khoảng 80 truyện ngắn và một số tiểu thuyết có giá trị như Lá ngọc cành vàng (1935), Ông chủ (1935). Sau khi tập truyện ngắn Kép Tư Bền được xuất bản (1935), thì tên tuổi Nguyễn Công Hoan đã nổi tiếng khắp Trung Nam Bắc. Có thể nói Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên khẳng định phương pháp hiện thực phê phán trong lĩnh vực truyện ngắn và là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời kỳ 1930 - 1935.
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, nhờ ảnh hưởng của Đảng, của sách báo Mác xít, của phong trào quần chúng khắp nông thôn và thành thị, các cây bút hiện thực phê phán có điều kiện tung hoành thoải mái hơn trước và dường như những tài năng đều gặp mùa nở rộ. Ngoài tiểu thuyết Cô làm công, (1936) Bước đường cùng (1938), Cái thủ lợn (1939), Nguyễn Công Hoan còn có nhiều tập truyện ngắn chất lượng cao hơn thời kỳ trước như Hai thằng khốn nạn (1937), Đào kép mới (1937), Sóng vũ môn (1938), Ngưòi vợ lẽ bạn tôi (1939).
Riêng về truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan đã viết tới hơn 80 truyện, trong đó có khoảng 30 truyện đả kích bọn quan lại và chế độ thực dân. Từ những truyện viết về nỗi khổ của dân nghèo thành thị (trước 1935), Nguyễn Công Hoan đã nhanh chóng chuyển sang những đề tài chính trị. Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ông đã trở thành người bạn đường đáng tin cậy của gi ai cấp công nhân.

Với những thành tựu xuất sắc đã đạt được trước Cách mạng tháng Tám (hơn 200 truyện ngắn vào hơn 20 truyện dài), Nguyễn Công Hoan xứng đáng là một nhà văn lớn, tiêu biểu cho nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Nếu như Ngô Tất Tố tập trung viết vềnông thôn, Vũ Trọng Phụng đả kích vào giai cấp tư sản thì đóng góp chủ yếu của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là đã xây dựng thành công một phòng tranh châm biếm và đả kích các kiểu quan lại và địa chủ cường hào ở nông thôn.

Trong kho tàng truyện ngắn của dân tộc, Nguyễn Công Hoan đã đóng góp một khối lượng lớn và có một nghệ thuật khá điêu luyện. Đi vào thế giới truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, ta có cảm tưởng như bước vào một khu triển lãm phong phú, nhiều màu nhiều vẻ về những cảnh ngộ, những con người đang múa may, khóc cười trong chế độ cũ. Có những chuyện độc ác tàn nhẫn, những chuyện xấu xa rởm hợm, những chuyện thương tâm ai oán cùng những chuyện nực cười lố lăng trong cái xã hội thực dân phong kiến đầy những ngang trái bất công. Bên cạnh đó là phác thảo chân dung của một số vị tai to mặt lớn mà nhiều kẻ hách dịch, đầy quyền thế đang sống phè phỡn trong giới thượng lưu lúc bây giờ.

Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan sinh động, hấp dẫn là vì tác giả luôn luôn thay đổi các thủ pháp nghệ thuật, thay đổi màu sắc và cung bậc tình cảm. Có truyện viết để gây căm hờn (Sáng - chị phu mỏ), có truyện viết để làm kinh tởm (Gói đồ nữ trang), có truyện viết để gọi lòng thương (Anh xẩm), có truyện chỉ để cười cho khoái trá (Samandjil, Anh hùng tương ngộ).
Nguyễn Công Hoan là người biết tổ chức cấu trúc chặt chẽ và thay đổi cấu trúc hình thức rất linh hoạt. Có những truyện là tấn bi hài kịch ba màn (Ai khôn, Đàn bà là giống yếu, Một tấm gương sáng) hoặc tấn bi kịch ba màn (ba truyện Chiếc quan tài), có khi là bi hài kịch lẫn lộn (Thằng ăn cắp). Có truyện kể theo lối viết thư (Thế là mợ nó đi Tây), có truyện nhân vật là một vật vô tri (Chiếc quan tài), có truyện tác giả tự xưng là nhân vật chính (Tôi tự tử), có truyện đả kích thẳng tay (Thịt người chết, Báo hiếu: trả nghĩa cha), lại có truyện phải viết ngụ ngôn, bóng gió (Đào kép mới, Ngậm cười, Người vợ lẽ bạn tôi).

Nếu như truyện ngắn của Thạch Lam tác động chủ yếu vào tình cảm và cảm giác người đọc, truyện của Nam Cao đi sâu vào tâm lý bên trong của nhân vật, thì truyện của Nguyễn Công Hoan nhằm nâng cao năng lực nhận thức và khám phá các hiện tượng phức tạp của xã hội. Chế độ thực dân phong kiến đầy rẫy những chuyện lừa bịp, khôi hài. Thế những kẻ đạo diễn tấn hài kịch là bọn vua quan, bọn đế quốc thì lại làm ra vẻ nghiêm chỉnh, luôn mồm nói chuyện đạo đức, nhân nghĩa, khai hoá, văn minh! Cho nên hầu hết truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan là nhằm bộc lộ mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng, giữa nội dung và hình thức để làm bật lên một tiếng cười đả kích (Đào kép mới, Tinh thần thể dục). Mâu thuẫn toát lên từ tính chất phi lý bên trong của một chính sách (Giá ai cho cháu một hào), một hiện tượng (Xuất giá tòng phu), một con người (Thầy cáu), từ sự đối lập giữa hai cảnh ngộ, hai tâm lý trong kết cấu của truyện (Hai cái bụng, Hai thằng khốn nạn, Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ).

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần với truyện cười dân gian. Nhìn chung cốt truyện quan trọng hơn nhân vật. Tiếng cười châm biếm thường đến bất ngờ trong phần kết thúc của cốt truyện (Oẳn tà roằn, Thằng ăn cắp, Đồng hào có ma, Thầy cáu, Samandj, Cái lò gạch bí mật). Nhiều truyện được xây dựng theo kiểu tiếu lâm, cốt truyện đột ngột, bất ngờ, đầy kịch tính. Từ những nụ cười tủm tỉm, độc giả bỗng cười phá lên vì ngạc nhiên trước cái kết thúc không ai lường được. Có khi nhà văn hãm tình cảm của độc giả lại, hoặc dùng lối nghi binh, đẩy đi chệch hướng một chút để làm cái đà cho nó nhảy vọt đến kết thúc bất ngờ của chuyện (Lại chuyện con mèo, Oẳn tà roằn). Nhiều truyện ngắn hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta nhằm khẳng định một mẫu người (Anh Keng, Đất, Khói, Bông hoa súng), một thái độ sống (Hãy đi xa hơn nữa), một quan hệ, một lối đánh giá (Người trở về). Nhưng kết thúc truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thì lại nhằm lật ngược một cảnh ngộ, một tình huống, vạch mặt trái một chân dung, phanh phui một mâu thuẫn nội tại. Chân lý được nhận ra thông qua một tiếng cười kinh ngạc. Tất nhiên không phải lúc nào sự bất ngờ cũng làm bật ra tiếng cười. Có khi sự kinh ngạc chỉ mang đến một nỗi sợ hãi khủng khiếp. Sự kinh ngạc trong truyện châm biếm của Nguyễn Công Hoan là một sự kinh ngạc mang dấu trừ và gây nên một hứng thú thẩm mỹ. Trong truyện Oẳn tà roằn người ta đều đoán con của Nguyệt có thể là một đứa bé kháu khỉnh, đẹp đẽ. Nó là con hoặc của Phong, hoặc của Bắc. Nhưng thật không ai ngờ nó lại giống "Oẳn tà roằn" không biết chống gậy! Người ta kinh ngạc vì không ngờ giữa lý tưởng xã hội thẩm mỹ tiến bộ và đối tượng bị châm biếm lại có một khoảng cách quá xa đến như vậy. Độc giả bỗng nhiên khám phá ra được chân lý và điều đó gợi nên những rung động, khoái cảm về mặt thẩm mỹ.

Nguyễn Công Hoan rất có sở trường về mặt khắc hoạ tính cách của nhân vật phản diện. Ông thường dựng lên những chân dung biếm hoạ theo kiểu phóng đại (Đàn bà là giống yếu). Có người cho rằng thủ pháp phóng đại làm cho nhân vật trở thành dị dạng, thiếu tính hiện thực. Chúng ta đều biết, ở các tác giả hài kịch, sự phóng đại chân chính không làm
giảm giá trị hiện thực của tính cách điển hình. Khi nhà văn đả kích một nhân vật nào đó thì có nghĩa là ông ta đã đối lập lý tưởng xã hội thẩm mỹ của mình với đối tượng bị châm biếm.

Thủ pháp phóng đại nhằm tăng cường sự đối lập đó, nhằm làm cho người đọc thấy rõ hơn khoảng cách quá xa giữa lý tưởng tiến bộ và nhân vật bị phê phán (Oẳn tà rroằn). Sự phóng đại cũng nhằm cường điệu thêm cái mâu thuẫn (giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng) vốn có trong bản thân đối tượng bị đả kích. Phóng đại nhân vật phản diện, làm cho người đọc tập trung chú ý vào những nét chủ đạo đó. Nguyễn Công Hoan đã sử dụng thủ pháp phóng đại trong cả ba trường hợp nói trên và có những thành công nhất định. Tuy nhiên cần phải thấy rằng phóng đại tính cách và hoàn cảnh là đặc trưng của tiểu thuyết trào phúng và hoạt kê. Do chưa nắm vững những đặc điểm riêng về mặt thể loại đó, do có khuynh hướng muôn ngả về hoạt kê hoặc chạy theo tiếng cười mà coi nhẹ ý nghĩa của nội dung, hoặc có thiên kiến với nhân vật, nên đôi khi trong truyện Nguyễn Công Hoan có những tiếng cười, những màn hài kịch không đúng lúc, đúng chỗ, hoặc có lúc nhà văn chạy theo thủ pháp phóng đại một cách dễ dãi mà không đi sâu được vào tâm lý xã hội của nhân vật.
Ở những truyện ngắn thành công, tiếng cười của Nguyễn Công Hoan thường có chiều sâu bên trong. Đó là tiếng cười cay đắng, chua chát, cười ra nước mắt (Thằng ăn cắp, Kép Tư Bền, Ngựa người và người ngựa, Tôi cũng không hiểu tại làm sao.) hoặc tiếng cười đả kích sâu cay, gây cho người đọc một thái độ căm phẫn, khinh miệt, một tinh thần phủ định triệt để (Thịt người chết, Tinh thần thể dục). Nguyễn Công Hoan đã tiếp thu được truyền thống lạc quan của quần chúng muốn dùng tiếng cười để tiễn đưa tất cả những cái lỗi thời vào quá khứ. Nhưng cần chú ý là tiếng cười dân gian tuy hồn nhiên, khoẻ khoắn, lành mạnh nhưng đôi khi còn bản năng, kinh nghiệm chủ nghĩa. Nhìn chung một số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan cần phải giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa dân gian và trí tuệ, dân tộc và hiện đại.

Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan rất tập trung, cô đọng, cảm hứng đi liền một mạch từ đầu đến cuối: "Ngắn (là hình thức) và thanh giản (là tinh thần), đó là hai đức tính cơ bản của truyện ngắn". Mỗi chuyện chỉ mô tả một việc, một cảnh, một nỗi lòng. Gọi là truyện ngắn mà lắm khi chẳng có chuyện gì. Vì thế truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan rất khó kể lại cho người khác nghe. "Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết”, "một bộ máy chạy bằng chi tiết. Trong việc viết truyện, quân là chi tiết, nhà văn là tướng chỉ huy. Nếu đánh trận, là đánh vào đồn thì viết truyện là tập trung đánh vào tình cảm nhất định của người đọc". Nguyễn Công Hoan có lối viết lý luận rất Việt Nam, giản dị mà dí dỏm. Theo ông, viết truyện ngắn không khác gì đánh cá bằng lờ ở chỗ nước chảy. Người đánh cá cắm đăng, chăng lưới, rồi gõ cạch cạch để lừa cho cá chui tọt vào hom. "Thế thì trong việc viết tiểu thuyết, cách cắm đăng, chăng lưới là cách trình bày các chi tiết, tiếng gõ là câu văn để dẫn tư tưởng của độc giả... vào một ý mà tác giả định nói". Ví dụ truyện ngắn Đào kép mới. Chúng ta thấy rất nhiều chi tiết thú vị. Đây là bà chủ rạp tuồng An Lạc bán vé nhưng ế khách, "ngồi thừ mặt, vạch vú ra cho con bú"; đây là bọn vua quan trên sân khấu, "vai vua gầy gò, ngồi trên cao, trước cái phông sơn thuỷ, vuốt bộ râu đuôi ngựa làm bức rèm mồm, nhìn hai dãy bá quan, hát những câu không ai nghe rõ. Bá quan nghiêm chỉnh thỉnh thoảng sờ nạm râu anh em ruột với râu của vua, mắt liếc ngang liếc dọc ra vẻ trịnh trọng".
Rồi hai anh kép hát pha trò rẻ tiền "xắn áo thêu, xốc lại mũ, múa may uốn éo, làm bộ giương súng, cưỡi ngựa, vặn ô tô, nhảy xe đạp. Người xem hát cười rầm rầm." Lúc cả rạp im phăng phắc thì "một luồng gió, qua chỗ đi tiểu đượm mùi cống, lọt vào cửa tò vò, làm cho cả rạp thấy thoang thoảng mùi không khí hăng hăng"! Đó là chưa kể đến đoàn xe quảng cáo mười lăm vị đào kép mới, có những cô tiểu thư "mắt toét, mặt trắng, má đỏ", những "ông thì mặt đỏ, ông thì râu dài, ông thì mũi hin, tai bẹp, ông trông ra phết thái sư"; lại có một cô tân thời, môi đỏ, đường ngôi rẽ lệch, "chiếc áo căng lườn trông tức anh ách như một bài thơ thất luật"... Những chi tiết trên được sắp xếp tài tình để cuối cùng dẫn đến một kết luận: "Từ hôm sau trở đi, chiều nào cũng vậy, cứ độ năm giờ, bọn đào kép ban An Lạc lại mũ quăng, phấn sáp, râu ria, ngồi trơ tráo trên xe cao su, đi giễu qua các phố để phơi nắng cái đời hát tuồng còn ngắc ngoải. Nhưng những người đã xem diễn qua một tối họ đều chán ngán, nghe tiếng trống kèn cổ động ầm ĩ, họ cũng biết rằng gánh hát còn sống đó, song chẳng ai muốn để ý xem tối nay, trong rạp, bọn vua quan trò hề ấy họ ậm oẹ với nhau những trò gì!". Đoạn kết trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan rất quan trọng. Chủ đề của truyện bao giờ tác giả cũng gửi vào câu kết. "Câu kết truyện của tôi là một cái lờ. Nó thường làm cho độc giả đột ngột, cũng như đến chỗ hẹp, nước chảy mạnh, thì cá bất thình lình bị đẩy tuột vào hom".

Nguyễn Công Hoan đã để lại cho chúng ta một khối lượng truyện ngắn phong phú với một nghệ thuật viết khá điêu luyện. Dư luận đều thống nhất đánh giá cao công lao của ông trong việc xây dựng một nền truyện ngắn Việt Nam hiện đại. "Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan cũng có thể nói là một "bách khoa toàn thư" về xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Nguyễn Công Hoan là bậc thầy về truyện trào phúng trong nền văn xuôi hiện đại, nhưng ông còn là một nhà văn giàu tình cảm, viết những truyện xúc động người đọc một cách sâu sắc. Chúng ta có thể so sánh ông với những nhà văn viết truyện ngắn trào phúng nổi tiếng nhất như Guy đơ Môpatxăng (Guy de Maupassant), Sêkhôp (Tchékov), Caragialơ (Caragiale)... Ông có tiếng cười muôn hình nghìn vẻ, đặc biệt sảng khoái của người Việt Nam trong nhiều truyện rất hấp dẫn, rất sống, vừa phong phú vừa dễ nhớ... càng đọc càng thú vị; và đóng góp của ông vào văn học thế giới là đề tài của ông đều rút từ cuộc sống thực ở Việt Nam, chứ ông không bắt chước, viết theo (...) một nhà văn ở châu Âu, mặc dù ông cũng viết nhiều truyện ngắn trào phúng xuất sắc như ba nhà văn nổi tiếng trên".

*
*   *

Trong thời kỳ hoạt động văn học trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan dốc hết sức vào việc viết truyện ngắn chứ không đặt nhiều công phu vào việc viết tiểu thuyết. Tắt lửa lòng(1933), Lệ Dung (1934), Lá ngọc cành vàng (1935) là những cuốn tiểu thuyết lãng mạn, trong đó Lá ngọc cành vàng có ý nghĩa tiến bộ nhất.
Những cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Công Hoan đã tố cáo bọn quan lại nhưng đứng ở góc độ phê phán lễ giáo phong kiến và đấu tranh cho hạnh phúc lứa đôi. Từ cuối năm 1935 và bước sang thời kỳ Mặt trận Dân chủ, các tiểu thuyết Ông chủ, Bà chủ (1935), Bước đường cùng (1938) và Cái thủ lợn (1939) mới trực tiếp nêu lên vấn đề giai cấp, trình bày mâu thuẫn xã hội ở mặt trung tâm và bước đầu đã xây dựng được những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình, do đó chất lượng hiện thực của tác phẩm cũng càng ngày càng sâu sắc hơn. Từ những tiểu thuyết lãng mạn trước 1935, Nguyễn Công Hoan dần dần khẳng định chủ nghĩa hiện thực phê phán trong thể loại tiểu thuyết.
Ông chủ, Bà chủ là tiểu thuyết đầu tiên trong văn học công khai thời Pháp thuộc đề cập trực diện đến xung đột giai cấp giữa nông dân và địa chủ, giữa vợ chồng anh đĩ Nuôi - tá điền - và vợ chồng lão chủ ấp. Nguyễn Công Hoan đứng hẳn về phía những người bị áp bức, bóc lột, tố cáo bọn địa chủ dâm ô tàn ác đã làm tan nát một gia đình nông dân lương thiện: vợ bị bắt đi ở vú rồi bị ông chủ làm nhục, chồng bị bà chủ sai người trói vào gốc cây đánh đến chết, con lên sài vài ngày rồi cũng bỏ vì không có ai chăm sóc! Tuy thể hiện người nông dân còn sơ lược, nhưng nhìn chung Ông chủ, Bà chủ là một bản tố khổ chân thật, gây xúc động trong lòng người đọc. Cuốn tiểu thuyết đã thể hiện sự kết hợp bút pháp châm biếm với bút pháp trữ tình theo kiểu những truyện ngắn Kép Tư Bền, Anh xẩm, Con ngựa già.

Trên kia đã nói, trong những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan thời kỳ Mặt trận Dân chủ thì Bước đường cùng là cuốn tiểu thuyết có tính tư tưởng cao và nội dung hiện thực sâu sắc nhất. Đề tài của Bước đường cùng là do ảnh hưởng của sách báo Cộng sản thời bấy giờ. Có thể nói Bước đường cùng đã phần nào minh hoạ một cách sinh động bằng hình tượng nghệ thuật cuốn Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình. Cái vốn sống phong phú là của Nguyễn Công Hoan. Nhưng được ánh sáng tư tưởng của Đảng rọi vào, mọi vấn đề đều hiện lên sáng rõ hơn, mang tính quy luật và có chiều sâu trí tuệ hơn. Sau khi viết xong Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan còn định viết tiếp Bước đường ngoặt và Bước đường sáng mô tả quá trình vô sản hoá và giác ngộ lý tưởng Cộng sản của anh Pha. Tất nhiên, do những điều kiện chủ quan và khách quan ý định đó không thực hiện được.

Bước đường cùng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Nguyễn Công Hoan thực hiện được cái yêu cầu mà Ănghen đề ra cho chủ nghĩa hiện thực: xây dựng những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Hoàn cảnh điển hình trong Bước đường cùng đã phản ánh được những mâu thuẫn cơ bản của xã hội bấy giờ, đã tạo điều kiện cho các nhân vật như Nghị Lại, anh Pha bộc lộ hết tính cách của mình. Anh Pha tuy chưa được cá thể hoá cao độ nhưng đã mang đầy đủ những nét bản chất, điển hình cho một bộ phận nông dân bị bọn địa chủ, quan lại đẩy vào con đường bần cùng, phá sản.

Bước đường cùng là một tác phẩm có tiếng vang lớn trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Các báo chí tiến bộ, đặc biệt là báo Tin tức của Đảng khen ngợi và nhiều hội Ái hữu thợ thuyền xin diễn kịch. Bọn thống trị liền tìm cách đối phó. Sáu tháng sau khi cuốn sách được xuất bản, thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh cấm lưu hành và tàng trữ Bước đường cùng ở Bắc. Rồi sau đó chúng cấm lưu hành trong toàn Đông Dương. Tuy nhiên 5000 cuốn Bước đường cùng đã đi vào giữa lòng quần chúng đóng góp vào những giá trị tinh thần của một thời kỳ lịch sử.

Nếu như Ngô Tất Tố có Tắt đèn rồi lại có Việc làng thì sau cuốn tiểu thuyết thành công Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan lại viết tiếp Cái thủ lợn (1939). Cũng như Việc làng, Cái thủ lợn tố cáo bệnh hiếu danh của bọn tổng lý cùng những hủ tục ở chốn nông thôn. Đây là câu chuyện tranh nhau ngôi thứ để được phần biếu là cái thủ lợn. Ký Liễu và Lý Trung tranh nhau cái ngôi tiên chỉ trong bảy năm liền, rút cục cả hai đều khuynh gia bại sản vì kiện cáo và khao vọng linh đình, chỉ bở lũ quan lại đục nước béo cò.
Và trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết. Để có tiền ném vào cuộc chạy đua kiếm một chỗ ngồi cao hơn ở chốn đình trung, bọn hào lý càng ra sức đục khoét những người nông dân vô tội.
Cái thủ lợn khép lại một giai đoạn của tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, bởi vì sau thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ông đã lâm vào tình trạng bi quan, mất phương hướng, từ con đường của chủ nghĩa hiện thực đi chệch sang con đường của chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ! Đời viết văn của Nguyễn Công Hoan đến 1943 có thể gọi là bế tắc. Buồn vì những truyện ngắn chống
chiến tranh như Hồi còi báo động, Êu êu Mê đo bị kiểm duyệt, Pháp xoá hết rồi lại bị treo giò một thời gian, buồn vì "vụ án Thanh đạm" cho là người đời không hiểu mình, mặt khác, cảnh nhà lại vắng vẻ, cho đến 1945 không còn có bóng một người đàn ông, hết người nọ bị đế quốc bắt lại đến người kia bị tù đày, Nguyễn Công Hoan đâm ra chán đời, làm thơ lãng mạn.
Nhà văn cho rằng đời mình đang xuống dốc và sắp đến ngày cáo chung. Nhưng Nguyễn Công Hoan không chết. Cách mạng tháng Tám đã kịp cứu sống nhà văn, giải phóng cho gia đình, đồng thời giải phóng cho ngòi bút viết tiểu thuyết của ông.
Nguyễn Công Hoan chào đón Cách mạng với tất cả tấm lòng hân hoan của mình và ngay khi chính quyền Cách mạng còn trứng nước, phải liên tiếp đương đầu với thù trong giặc ngoài, ông đã hăng hái nhận mọi nhiệm vụ Cách mạng giao cho. Ông làm Giám đốc Sở tuyên truyền Bắc Bộ rồi khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông tình nguyện gia nhập quân đội, làm báo Vệ quốc quân rồi làm Giám đốc Trường văn hoá quân nhân trung cấp, chủ nhiệm tờ Quân nhân học báo. Chính những năm sống gian khổ trong núi rừng Việt Bắc, Nguyễn Công Hoan đã trở thành đảng viên Cộng sản (1948) và khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, do công lao phục vụ quân đội, ông được tặng thưởng Huân chương Chiến thắng. Thủ đô Hà Nội được giải phóng, Nguyễn Công Hoan mới trở lại hoạt động trong Hội văn nghệ Việt Nam, được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn, khoá chấp hành đầu tiên (1957) và sau đó là Uỷ viên Ban thường vụ Hội trong các khoá tiếp theo. Điều đáng mừng là từ 1955 về sau, Nguyễn Công Hoan lại viết đều tay và những tác phẩm của ông đã góp phần vào "sự lớn lên của thể loại tiểu thuyết đài những năm 60". Ta có Tranh tối tranh sáng (1956), Hỗn canh hỗn cư (1961), Đống rác cũ (tập I - 1963), Anh con trai người bạn đọc ấy (1965 - chưa in), Nếu không có anh (chưa in). Ngoài tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan còn có một số bút ký và tuỳ bút có giá trị.

Nhìn chung tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan trước và sau Cách mạng tháng Tám, tuy nội dung có khác nhau nhưng vẫn có chung một số đặc trưng thể loại.
Nguyễn Công Hoan viết văn cùng thời vói Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Trọng Thuật, Vũ Đình Long, cái thời người ta vẫn còn mang nặng quan niệm dùng văn chương để chở đạo đức, đểdạy luân lý cho người đời. Vượt qua khuôn khổ của chủ nghĩa giáo huấn và chủ nghĩa quy phạm, nhà văn hiện thực phê phán Nguyễn Công Hoan đã tuân theo chủ nghĩa khách quan lịch sử trong khi phản ánh và bình giá hiện thực. Tuy nhiên, một số truyện ngắn, truyện dàicủa ông vẫn còn có khuynh hướng chứng minh cho những luận đề đạo đức. Khi ý đồ giáo huấn toát ra một cách khách quan, tự nhiên qua cốt truyện và nhân vật, khi quan điểm đạo đức của nhà văn thống nhất với quan điểm giai cấp của quần chúng lao động thì những truyện ngắn có ý nghĩa giáo huấn đó mang tính chất tiến bộ (Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, Con ngựa già, Xuất giá tòng phu).

Nhưng khi quan điểm đạo đức có màu sắc bảo thủ hoặc cải lương phong kiến thì những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan có khuynh hướng rơi vào chủ nghĩa chủ quan, dần dần đi xa chủ nghĩa hiện thực (Cô giáo Minh, Thanh đạm, Danh tiết).
Trước 1945, tiểu thuyết Bước đường cùng không giấu giếm cái ý đồ của một tác phẩm mang luận đề xã hội. Trong tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, thái độ yêu ghét, nhiệt tình bênh vực lý tưởng của tác giả cũng như khuynh hướng của tác phẩm rất rõ rệt. Đó là một ưu điểm nổi bật. Tuy nhiên có lúc Nguyễn Công Hoan đã hiểu một cách đơn giản quan niệm văn học phục vụ chính trị: "Nghệ thuật là phương tiện vận tải nội dung chính trị. Khi ngồi vào bàn viết, nhà nghệ thuật chỉ còn phải nghĩ việc dùng nghệ thuật cho khéo để đưa cái đề tài có tính chất chính trị ấy cho nó mềm mại, hấp dẫn mà thôi". "Nghệ thuật là hình thức, chính trị là nội dung". Nghệ thuật nào cũng có tính khuynh hướng, những nội dung tác phẩm nghệ thuật không phải chỉ có chính trị. Nghệ thuật phản ánh cuộc sống một cách sinh động, trong tính toàn vẹn phức tạp của nó chứ không phải chỉ minh hoạ chính trị. Do cái quan niệm còn có phần phiến diện và đơn giản đó, nên đôi khi Nguyễn Công Hoan có khuynh hướng mượn nhân vật phát ngôn cho những vấn đề đạo đức (Cô giáo Minh) hoặc chính trị (Tranh tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư, tập truyện ngắn Nông dân với địa chủ), nhân vật thường bị hiện đại hoá, không có một đời sống riêng, một ngôn ngữ được cá thể hoá.

Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan cứ như là một tranh liên hoàn của những truyện ngắnnối liền nhau. Nhân vật, tuy có chân dung, lý lịch, có vận mệnh riêng, nhưng đôi khi vẫn bị coi như một công cụ mà tác giả dẫn dắt qua nhiều hoàn cảnh, môi trường của xã hội cũ, từ đó có dịp tố cáo những kiểu người khác nhau của đẳng cấp thượng lưu (Đống rác cũ), những
cảnh khổ điển hình của nông dân và dân nghèo thành thị (Bước đường cùng).

Lối xây dựng tiểu thuyết theo kiểu xâu chuối các sự kiện và biến cố, theo kiểu những truyện ngắn liên hoàn - mỗi truyện là một tháp đoạn (épisode) hoàn chỉnh - về thực chất vẫn chưa vượt ra ngoài khuôn khổ lối kết cấu của những truyện kể dân gian theo lối chương hồi của phương Đông hoặc các tiểu thuyết trung thế kỷ và thế kỷ XVI ở châu Âu, trong đó nhân vật phiêu du qua nhiều hoàn cảnh, môi trường khác nhau của xã hội phong kiến. Lối kết cấu tiểu thuyết này, nếu tôn trọng sự phát triển hợp lôgic nội tại của nhân vật, nếu xem việc xây dựng tính cách nhân vật là một trong những nhiệm vụ trung tâm của tiểu thuyết thì vẫn có thể có những tác phẩm xuất sắc. Nhưng nếu như lúc nào đó, nhà văn hiểu nó theo một quan niệm dễ dãi thì có nguy cơ biến nhân vật thành một phương tiện. Trên kia đã nói, trong Bước đường cùng, chương thành công nhất là lúc anh Pha lên công đường hầu kiện. Nhưng ở chương đó, anh Pha chỉ được nhà văn coi như một "cái cớ để tả nổi bật những cảnh ức hiếp, bóc lột ở cửa quyền. Rõ ràng là ở đây anh Pha đóng vai phụ mà những vai chính phải là những tên quan huyện, lính cơ, lính lệ, đội lệ, thừa hái v.v... Cho nên cái gọi là "nội tại" của nhân vật, tức là anh Pha, ở mấy chục trang này, vì lẽ ấy mà không có". Còn trong Đống rác cũ thì ở một số chương, Anbe Thừa bị tác giả giật dây, đi ngật ngưỡng giữa cuộc đời đen bạc như một con rối! Nguyễn Công Hoan sẽ cho nó, bằng ngón võ lừa bịp, leo dần lên những bậc thang phú quý. Nó sẽ làm lang thuốc, làm chủ báo, làm chủ tầu thuỷ, làm hàn lâm, làm nghị viện dân biểu được thưởng Nam Long bội tinh! Nó sẽ đi qua những môi trường khác nhau, giữ những chức vị khác nhau để tác giả có dịp tố cáo những thủ đoạn tráo trở, lừa bịp của các tầng lớp thượng lưu trong xã hội thực dân phong kiến. Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan mở ra theo chiều rộng của các môi trường, hoàn cảnh bên ngoài nhưng lại chưa quan tâm đúng mức đến chiều sâu bên trong, đến sự vận động tâm lý của các nhân vật.
Trước Cách mạng, có lúc Nguyễn Công Hoan đã nghĩ rằng mình chưa hề viết tiểu thuyết xã hội mà chỉ viết tiểu thuyết phong tục. Theo ông, Bước đường cùng là tiểu thuyết phong tục. Những chuyện đẻ đái, chửi bới nhau vì mất gà mất qué, thù hằn nhau rồi bỏ rượu lậu vào ruộng nhau, những cảnh thu thuế, đốc thuế, vay nợ, ăn khao, phạt vạ đều là phong tục. Thật ra, Bước đường cùng là một cuốn tiểu thuyết có luận đề xã hội, nó không lấy việc miêu tả phong tục làm cứu cánh. Tuy vậy, không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Công Hoan lại gán cho Bước đường cùng cái tên tiểu thuyết phong tục.

Trong tiểu thuyết, Nguyễn Công Hoan hay mượn các nhân vật, các chương để tái hiện các sự kiện lịch sử quan trọng hoặc gửi gấm vào đấy cái vốn hiểu biết phong phú, đồ sộ của mình về các tầng lớp, các môi trường, các nghề nghiệp khác nhau của xã hội đương thời. Nguyễn Công Hoan rất có ý thức khôi phục lại cái không khí xã hội, các phong tục, sinh hoạt, ngôn ngữ, tín ngưỡng... của một thời kỳ lịch sử. Về mặt này ông là người có biệt tài. Ông am hiểu lịch lãm xã hội cũ, biết rất tỉ mỉ về các địa phương, các danh nhân, đặc sản từng vùng của đất nước; ông lại có một trí nhớ rất đặc biệt, nhớ chính xác đến từng chi tiết nhỏ, nhớ từ cái áo the nước dưa và cái quần cháo lòng lộn trái của tên lý trưởng đến từng lời từng chữ trong cái trát của một viên tri huyện sức về làng, "nhớ như chôn vào ruột" lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành động trong đời công đời tư của những kẻ có thế lực, có địa vị trong cái xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Cũng có thời kỳ cái ý định phục hiện lịch sử của ông mang mầu sắc của tư tưởng phục cổ (Thanh đạm), nhưng nhìn chung những trang tiểu thuyết cung cấp cho chúng ta nhiều tài liệu quý về xã hội, sử học, văn học, ngôn ngữ học, kinh tế học... Chúng ta hãy đọc chương XX của Tranh tối tranh sáng, trong đó, qua các phiên chợ của một huyện nhỏ, Nguyễn Công Hoan muốn dựng lại không khí xã hội của thời kỳ nạn đói bắt đầu hoành hành ở nông thôn 1945. Trước hết là bọn đầu cơ tích trữ ùn ùn đổ về, làm cho gạo tăng vọt lên mấy giá trong một ngày. Bọn họ từ Hà Nội xuống, Hải Dương, Hưng Yên sang, là những bà hàn, bà nghị, là người của hãng Chiêu hoà, của An bộ đội, của Yamađa thương cục Nhật Bản, của Viển Đông công ty, của nhà Sa-lê của hãng Măng-đét, của sở Binh lương Pháp. Trên trời dưới gạo nhưng những người đói vẫn kéo nhau từng đoàn rách rưới đi ăn xin và mỗi phiên chợ lại xuất hiện những "người ngồi hàng mới". Trước hết họ bán áo ba-đờ-suy, giầy Gia Định hoặc những thứ xa xỉ như bát đĩa cổ, hoành phi, câu đối khảm, ảnh thống chế Pêtanh. Hồi sau đã thấy bày những thứ cần thiết cho đời sống hàng ngày: bát đĩa phố, mâm gỗ, nồi đồng, nồi đất, chảo gang.... Hồi sau nữa là những mâm bồng sơn, bát hương, ỉ và áo chủ. Cuối cùng họ dỡ nốt gian nhà ra bán với những cột, xà, rui mè, bó lạt, ôm lá... Từ đó trở đi không thấy người "ngồi hàng mới" đâu nữa. Trên chiếc nền nhà cũ lộ thiên, rêu mọc mỗi ngày một xanh, rau sam lan rộng ra và cỏ lên mỗi ngày một cao.
Con chó vàng thoát chết nay bò về, cuộn khoanh trên nền hè cũ, chờ người chủ nhà không biết đi ăn xin lang thang tận đâu hay đã chết đói ở các lề đường cầu chợ nào...

Đọc một chương tiểu thuyết Hỗn canh hỗn cư, ta thấy Nguyễn Công Hoan nghiên cứu rất sâu các tổ chức cộng đồng ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, những mặt hay và những mặt dở của các phường, các hội, các họ. Hội thì như hội Kỳ Anh của các cụ đến 50 tuổi, phường thì như phường hoạn lợn, phường hát chèo, họ thì như họ cơm, họ thịt, họ rượu. "Có hội, có phường, có họ người ta mới có thể nói đến chuyện vào nóc ở trong làng như nóc làng, nóc giáp, nóc chạ, nóc tư văn, nóc các cụ... Những hội, phường, họ, nống cho cái tệ hương ẩm, nhưng một mặt cũng thành thói quen tốt cho làng Văn Chương là có ý thức tương trợ. Bởi vậy mấy năm Bình dân, nhiều hội mới (hội tương tế, hội bài trừ hủ tục, hội dạy quốc ngữ, hội tập thể dục) được thành lập".

Những tài liệu về xã hội cũ mà trước đây Nguyễn Công Hoan chưa có dịp đưa được vào truyện ngắn, truyện dài thì ông đã viết lại một phần trong Đời viết văn của tôi và đặc biệt từ năm 1970, ông đã ghi lại được khoảng 600 sự việc lớn nhỏ. Hồi ký Đời viết văn của tôi làm ta nhớ lại các sự kiện lịch sử 60 năm văn học, đặc biệt là quá trình hình thành từ những bước đầu của các ngành báo chí xuất bản, giáo dục. Tác phẩm này cũng ghi lại phác thảo chân dung của một số nhà văn, nhà thơ như Tản Đà, Vũ Đình Long, Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, Nhất Linh, Vũ Bằng, Lê Văn Trương... Năm 1978, Nhà xuất bản Tác phẩm mói đã chọn một số đoạn tiêu biểu (trong số 600 đoạn) in thành Nhớ vào ghi. Trong hoàn cảnh nước ta, trước đây các ngành bảo tồn bảo tàng, xã hội học, dân tộc học chưa phát triển thì đây là những tài liệu rất tốt giúp cho các thế hệ về sau dựng lại bức tranh chân thật về một thời kỳ lịch sử đã qua, đồng thời cung cấp cho họ những chi tiết chính xác về cái xã hội tù túng, quằn quại dưới ách thực dân phong kiến.

Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài... là những nhà văn đã có tên tuổi từ trước Cách mạng tháng Tám. Thông qua tác phẩm của các nhà văn ấy chúng ta có thể rút ra những vấn đề lý luận trong quá trình chuyển hoá về thế giới quan, phương pháp sáng tác và phong cách nghệ thuật của các nhà văn lớp trước, những bài học kinh nghiệm khi viết về đề tài xã hội cũ, những đặc điểm cách tân của tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa so với tiểu thuyết hiện thực phê phán, những yêu cầu nghệ thuật khi xây dựng những bộ tiểu thuyết có quy mô sử thi, có dung lượng lớn và sức mạnh tổng hợp, bao quát được những thời kỳ lịch sử quan trọng của dân tộc.

Những tác phẩm Nguyễn Công Hoan viết sau Cách mạng tháng Tám dường như có ý thức bổ sung những mảng hiện thực trước đây chưa có trong truyện và tiểu thuyết hiện thực phê phán của ông. Đống rác cũ viết về thời kỳ 1916 - 1920, trước khi ông viết truyện Sóng vũ môn (1920), Tranh tối tranh sáng và Hỗn canh hỗn cư viết tại thời kỳ 1940 - 1945, thời kỳ có những chuyển biến dữ dội trong xã hội Việt Nam, chuẩn bị những điều kiện để bùng nổ Cách mạng tháng Tám. Như thế có thể thấy một ý đồ của nhà văn muốn dựng lại trong tác phẩm của mình một chặng đường của xã hội Việt Nam trong 30 năm đầu (1915 - 1945) của thế kỷ XX. Mặt khác, cần thấy rằng văn học hiện thực phê phán Việt Nam có những hạn chế nhất định do đặc trưng của phương pháp sáng tác, do những điều kiện hoạt động công khai ở một nước thuộc địa. Văn xuôi hiện thực xã hội chủ nghĩa cần phải làm nhiệm vụ bổ sung và hoàn chỉnh bức tranh hiện thực trong các tác phẩm văn xuôi hiện thực phê phán, nhất là các mảng đả kích vào bọn đế quốc và bè lũ tay sai, miêu tả phong trào cách mạng của quần chúng lao động, đặc biệt là thời kỳ từ khi Đảng ta thành lập cho đến Cách mạng tháng Tám.
Tiểu thuyết Tranh tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư, Anh con trai người bạn đọc ấy đã có ý thức làm nhiệm vụ đó. Có những mảng hiện thực hoàn toàn mới mẻ, có những mảng hiện thực cũ được tô đậm lại với một cách nhìn sâu sắc, chính xác và toàn diện hơn.
Tranh tối tranh sáng và Hỗn canh hỗn cư đã phát huy được những mặt mạnh vốn có trước đây của Nguyễn Công Hoan trong văn học hiện thực phê phán. Ngòi bút Nguyễn Công Hoan vẫn tỏ ra sắc sảo khi tố cáo bọn nhà giàu tham lam vô độ ở thôn quê, những bọn hào lý kỳ mục sâu mọt, hống hách và ăn bẩn, những bọn quan lại coi việc đục khoét là hành động khôn ngoan "bất độc lớp anh hùng", những thủ đoạn lừa lọc, dâm ô của các tầng lớp thượng lưu xã hội. Nhưng nếu như trước đây nhà văn tô đậm mặt tham nhũng, dâm ô, đểu cáng thì giờ đây, với một thế giới quan mới, ông đã tập trung tố cáo mặt chính trị phản động và những thủ đoạn bóc lột kinh tế của chúng. Tri huyện Lê Sung (trong Hỗn canh hỗn cư) có cả một chiến thuật khôn ngoan và độc ác để bắt bớ Cộng sản, triệt hạ những thôn xóm và gia đình cách mạng. Hàn Thưởng (trong Tranh tối tranh sáng) là tay chân đắc lực của lão công sử già Vamê trong những âm mưu chống phá cách mạng. Thời kỳ Nhật vào Đông Dương, chúng đứng ra thu mua thóc gạo cho nhà nước và giở những thủ đoạn gian trá để bóc lột dân chúng.
Tranh tối tranh sáng cũng dành cả một chương XXXII để lột mặt trái những trò hề chính trị nhạt nhẽo của Bảo Đại và nội các Trần Trọng Kim, để tố cáo những tấn hài kịch và bi kịch của mấy cái đảng thân Nhật mà thực chất là những ổ phản động và lưu manh đang tìm cách phất lên trong cái không khí lộn xộn, nhố nhăng, ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông! Cứ trở về cái giọng hài hước, châm biếm quen thuộc khi lột trần bản chất hài kịch của giai cấp thống trị suy vong là Nguyễn Công Hoan rất thành công.

Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa của Nguyễn Công Hoan đã khắc phục được những mặt hạn chế trước đây của tiểu thuyết hiện thực phê phán. Dưới ách kiểm duyệt gắt gao, văn xuôi hiện thực phê phán không có điều kiện tập trung mũi nhọn đả kích vào kẻ thù số một của dân tộc. Giờ đây, lần đầu tiên trong tác phẩm Nguyễn Công Hoan, xuất hiện những phác thảo chân dung châm biếm của các vị thượng quan người Pháp. Đó là toàn quyền Paskiê buôn bán làm giàu bằng cách lừa bịp, toàn quyền Đờcu truỵ lạc, bất lực và hèn nhát, thống sứ Saten được vợ các viên tri phủ, tri huyện khen là tuổi tuy đã cao nhưng tính khí hãy còn "vui vẻ trẻ trung”, công sứ già Vamê đục khoét nổi tiếng mà vẫn cứ muốn được khen là thanh liêm theo kiểu "một thứ cô đầu già, giữ tiếng vô lý là không đĩ"! Cũng lần đầu tiên, trong tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan (Anh con trai người bạn đọc ấy) xuất hiện cả một lý lịch đầy đủ về ngài tổng giám mục Đulây-khâm mạng toà thánh Đông Dương và Thái Lan, một người Ái Nhĩ Lan nhưng nhập quốc tịch Mỹ, về ngài Fr. Anselmô Tađêô Lê Hữu Từ, giám mục địa phận Phát Diệm, quyền nhiếp chính địa phận Bùi Chu, đại diện quân sự của Quốc trưởng Bảo Đại tại Phát Diệm! Nguyễn Công Hoan có nhiều tài liệu về lý lịch "bất hảo" của bọn phản động chóp bu, nhưng ngòi bút tiểu thuyết của ông thường chỉ sắc sảo, sinh động khi khắc hoạ tính cách bọn tay sai lớp dưới. Đó là linh mục Phan Thành Nhân đưa Pháp về xứ Đồng bắn giết, hãm hiếp, biến gác chuông nhà thờ thành lô cốt giặc và xung quanh thành trại giam người và tra tấn. Cha Nhân đích thân dẫn quân đi càn quét các làng bên lương, cắm thánh giá lên nóc chùa, sai lính đập tượng Phật để "mở rộng nước Chúa"! Hàng ngày Nhân đeo lon trung uý sang bốt làm việc như một sĩ quan trong đội lính đánh thuê, chỉ có sáng chủ nhật Nhân mới mặc áo chùng thâm bịt tà, luồn súng lục vào quyển Kinh Thánh lúc làm lễ! Độc đáo nhất là hình tượng cha Phước, người Y-pha-nho với những thủ đoạn bóc lột và ngu dân vừa trắng trợn, vừa tinh vi xảo quyệt. Là người truyền giảng ở nhà thờ những lúc cần cha Phước cũng chống gậy đi đòi tiền nhà con chiên ở ngoài phố, giàu sụ lên, nhưng vẫn bủn xỉn chi ly từng đồng một với kẻ dưới, tự xưng là "nhà tu hành sống một đời khổ
hạnh" nhưng tích trữ vàng như một con buôn và cha thường "lấy hắc ín sơn ra ngoài những thỏi vàng rồi đem nhét chặt vào những đệm". Cha hành nghề tôn giáo nhưng vẫn làm cả việc thuyết lý, dụ dỗ, doạ nạt công nhân nhà in khi họ đình công và báo mật thám bắt những con chiên dại dột trót xưng tội là đã liên hệ với Việt minh Cộng sản. Cha chỉ huy cả một hệ thống tay sai được phân công tỷ mỉ là thầy Ấn, thầy Điền, thầy Gia, thầy Lễ. Thầy Ấn giúp cha mọi việc kinh doanh in ấn, kể cả việc theo dõi khám xét công nhân và cúp phạt lương tháng. Thầy Gia trông nom việc mua bán xây dựng và thu thuế nhà đất. Công việc của thầy Điền "mặt sắt" là thu tô đòi nợ, "thầy phải vừa cứng rắn cho người ta sợ, vừa mềm dẻo cho người ta khỏi trả ruộng. Nghĩa là cột chặt hai cánh tay người dân cày vào đất đai của Nhà Chung".
Khác hẳn với thầy Điền, thầy Lễ "đẹp kiểu con gái”, da trắng, má phình, đi đứng khoan thai kiểu nhà nho. Nhiệm vụ của thầy không phải chỉ trông nom việc lễ lạy ở nhà thờ mà Cha giao cho thầy từ việc trong đến việc ngoài, việc chung và việc riêng, việc nhỏ đến việc lớn. Thầy phải theo dõi giáo dân, xem họ có gì sai trái, phạm thời thế hay không? Thầy phải đóng vai trò của người nội trợ, ghi sổ xem ai biếu xén cha những gì, "trong bếp còn bao nhiêu mỡ, bao nhiêu trứng, bao nhiêu bơ, bao nhiêu pho mát, bao nhiêu thịt cá, hoa quả". Thầy còn giúp cha việc cho vay nặng lãi, tích trữ hàng hoá, trong mấy năm chiến tranh thầy đã chất trong kho nào là xà phòng Con ngựa, nào là sợi Nam Định, nào là vải chúc bâu, nào là giấy nhật trình cùng nhiều thứ khan hiếm khác như dầu hoả, rượu bổ, thuốc đagiênăng, đá lửa".
Cha giao cho thầy toàn quyền quản lý của cải, dường như buông lỏng không nhòm ngó gì, nhưng đố thày có thể "tơ hào nửa đồng kẽm"! Lần đầu tiên trong tác phẩm Nguyễn Công Hoan, tên cố đạo nước ngoài, kẻ được giao nhiệm vụ chăm sóc phần hồn cho bầy con chiên ngoan đạo ở một nước thuộc địa, đã hiện nguyên hình là tên tay sai nguy hiểm của chính quyền thực dân trong việc ru ngủ, mua chuộc, doạ dẫm những người nông dân công giáo yêu nước, là tên bóc lột vừa thu tô và cho vay nặng lãi theo kiểu phong kiến, vừa đầu cơ tích trữ, kinh doanh theo kiểu con buôn tư sản.

Anh con trai người bạn đọc ấy là một bước tiến đáng kể của tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan trong những năm 60. Trong cuốn tiểu thuyết này, Nguyễn Công Hoan đã biết tự kiềm chế mình, ông sử dụng một bút pháp hiện thực tỉnh táo, không pha trộn tuỳ tiện phóng đại và hoạt kê, nên các đối tượng bị đả kích hiện ra chân thật hơn, tác dụng phê phán sâu sắc hơn.
Ông cũng không sa vào cái bệnh hiện đại hoá nhân vật và đôi khi vi phạm tính lịch sử một cách tuỳ tiện, chủ quan như ở một vài cuốn tiểu thuyết khác.

Tuy có những nhược điểm nói trên, truyện và tiểu thuyết những năm 60 của Nguyễn Công Hoan đã góp phần bổ sung và hoàn chỉnh thêm cái tập hợp chân dung của bọn thống trị trong văn học hiện thực phê phán trước đây. Mặt khác, những tập ký như Những ngày tháng Tám ở Côn Đảo (ghi theo lời các chiến sĩ cách mạng), Người cặp rằng hầm xay lúa năm 1930 (ghi hồi ký cách mạng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng) cũng như những tiểu thuyết Tranh tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư đã cố gắng dựng lại hình ảnh những chiến sĩ Cộng sản đấu tranh trong nhà tù đế quốc hoặc hoạt động bí mật của phong trào Mặt trận Dân chủ và Mặt trận Việt Minh. Hỗn canh hỗn cư tập trung tái hiện phong trào yêu nước và cách mạng của một làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ những năm trước Cách mạng tháng Tám.

Hình ảnh nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm cũng được ghi lại trong tiểu thuyết Xổng cũi (1947), tập truyện ngắn Nông dân với địa chủ (1956) và đặc biệt trong tiểu thuyết Anh con trai người bạn đọc ấy (1965). Tuy còn có những mặt yếu về vốn sống và khả năng thể hiện, nhưng tác phẩm trên đây đã nói lên rất rõ tấm lòng yêu mến và khâm phục của nhà văn Nguyễn Công Hoan đối với các chiến sĩ Cộng sản và nhân dân anh hùng. Đặc biệt trong Anh con trai người bạn đọc ấy, lần đầu tiên hình ảnh người dân công giáo yêu nước và những cán bộ hoạt động bí mật trong vùng tề Bùi Chu, Phát Diệm đã hiện lên khá sinh động và gây những ấn tượng rất đẹp đẽ. Đây là một cố gắng của Nguyễn Công Hoan trong quá trình chuyển hoá từ hiện thực phê phán sang hiện thực xã hội chủ nghĩa, lúc nhà văn đã ngoài 60 tuổi.
Thông qua sự chuyển hoá của ông cũng như của các nhà văn hiện thực phê phán khác, chúng ta có thể rút ra những quy luật chi phối sự chuyển biến về thế giới quan, phương pháp sáng tác và phong cách của các nhà văn lớp trước trong quá trình chiếm lĩnh phương pháp sáng tác mới.

Lao động nghệ thuật là một quá trình lao động công phu, liên tục và đòi hỏi phải hết sức say mê. Trước Cách mạng tháng Tám, trong hơn 15 năm, Nguyễn Công Hoan đã tập trung với nghề viết văn. Tuy bận dạy học, nhưng lúc ăn, lúc sắp ngủ, lúc đứng thẫn thờ một mình, bao giờ ông cũng suy nghĩ đăm chiêu về các cốt truyện và nhân vật, "đến nỗi đối với những sự việc, những nhân vật ở đời, tôi như người đãng trí, vô tình". Lao động nghệ thuật đối với ông lúc đó là một nhu cầu nội tại. Những trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Công Hoan bận nhiều công tác khác trong quân đội, ông coi công việc viết văn chỉ là phụ, mãi đến sau hoà bình, khi trở lại Hội nhà văn, ông mới tập trung vào chuyện sáng tác. Cái hiện tượng gần như đứt quãng này đã xảy ra đối với một số nhà văn hiện thực phê phán, nó gần như là một quy luật trong thời kỳ quá độ của quá trình chuyển hoá. Nguyễn Công Hoan, cũng như Ngô Tất Tố, lúc bấy giờ có cái dè dặt của một người cầm bút mà tuổi đời đã cao, không còn cái "vui vẻ hồn nhiên", cái nhạy bén sắc sảo như trước. Nhưng ở đây có những nguyên nhân phổ biến hơn. Đối với cuộc sống mới, con người mới, các nhà văn hiện thực phê phán còn quá bỡ ngỡ. Họ "như cái cây mới đánh lên để trồng lại ra chỗ khác, rễ chưa ăn với đất mới". Mà vốn sống về xã hội cũ thì chưa biết để làm gì? Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chúng ta chưa khuyến khích các nhà văn lớp trước viết lại về đề tài xã hội cũ. Cho nên có lúc Nguyễn Công Hoan đã nghĩ một cách hồn nhiên: "Tây đi, Nhật cút, vua quan tổng lý đã về vườn, còn đâu là đế quốc và phong kiến nữa mà phải đả kích". Viết về đề tài xã hội cũ bằng phương pháp hiện thực phê phán thì không được nữa rồi. Mà phương pháp sáng tác mới thì chưa chiếm lĩnh được. Đây là nguyên nhân cơ bản của hiện tượng lúng túng hoặc chưa thành công trong thời kỳ quá độ.

Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa hiện thực phê phán, nhưng từ chủ nghĩa hiện thực phê phán chuyển sang chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa không phải là một gạch nối thẳng tắp. Ở đây có những nhiệm vụ phải giải quyết như những quy luật trong quá trình chuyển hoá. Trong thế giới quan của các nhà văn hiện thực phê phán nước ta có những ảnh hưởng tích cực của phong trào vô sản và các phong trào dân tộc, nhưng cũng có nhiều ảnh hưởng phức tạp của hệ tư tưởng tư sản và hệ tư tưởng phong kiến. Đó là chủ nghĩa cải lương tư sản, chủ nghĩa nhân đạo tiểu tư sản, tư tưởng bảo thủ phong kiến. Mặt khác, như trên đã nói, trong chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam có những ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực và chủ nghĩa tự nhiên.

Không phủ định một cách có ý thức những mặt tiêu cực nói trên, không thể chuyển hoá tốt sang phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nam Cao chuyển hoá được sớm, một phần là vì anh đã được chuẩn bị trong thời kỳ hoạt động văn hoá Cứu quốc bí mật, mặt khác là vì sau này trong Đôi mắt và Nhật ký ở rừng, anh đã có ý thức phủ định một cách mạnh mẽ những mặt yếu trong thế giới quan cũ của mình, nhằm chuẩn bị điều kiện cho sự hình thành một thế giới quan mới. Trong những trường hợp sự phủ định đó diễn ra một cách dễ dãi hoặc có phần chủ quan, thì sớm hay muộn, những mặt tiêu cực sẽ bộc lộ một cách tự phát trong quá trình chuyển hoá. Sự xuất hiện có vẻ như đột nhiên của một số tiểu thuyết mang màu sắc tự nhiên chủ nghĩa (Đống rác cũ) những năm trước sau 1960 chính là nằm trong quy luật đó.
Sự chuyển biến về thế giới quan là một điều kiện tiên quyết, nhưng chưa đủ để bảo đảm cho một nhà văn lớp cũ chuyển mình sang phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp sáng tác mới có những yêu cầu mới về mặt điển hình hoá và phản ánh hiện thực, những yêu cầu này quy định nhiệm vụ xây dựng hình tượng con người mới xã hội chủ nghĩa và miêu tả cuộc sống mới một cách lịch sử - cụ thể trong quá trình phát triển cách mạng. Ở nhà văn Nguyễn Công Hoan, vốn sống cũ, nhất là sự hiểu biết những mặt xấu của xã hội thì đã quá thuần thục, nhưng vốn sống mới và sự hiểu biết con người mới thì có những mặt chưa nhuần nhị. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông ở trong rừng với cơ quan, xa nơi làng bản, hơn nữa tuổi đã cao, không có điều kiện xông xáo xuống các cơ sở hoặc tham gia các chiến dịch lớn. Mặt khác, những điển hình con người cũ đã định hình, đã thành khuôn, tạo nên bằng hàng nghìn năm của chế độ phong kiến và bằng ngót trăm năm của chế độ thực dân, còn con người mới thì tính cách chưa định hình, còn đang phát triển, nên rất khó nắm bắt. Điều đáng chú ý là nếu vốn sống cũ không được hoàn chỉnh và bổ sung bằng một vốn sống mới, không được đánh giá lại dưới ánh sáng của một thế giới quan mới thì nhà văn cũng không thể nào thành công khi muốn dựng lại toàn cảnh những phong trào cách mạng dân tộc dân chủ trước Cách mạng tháng Tám.

Văn xuôi hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta đã đi qua một chặng đường hơn 30 năm. Nhìn lại con đường đi của một số thế hệ nhà văn lớp cũ, lớp mới, chúng ta rút ra được một bài học: không thể tiếp cận phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa bằng một lối viết năng khiếu, kinh nghiệm chủ nghĩa. Muốn có những tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa
thành công, không thể giẫm chân mãi trên một lối mòn bản năng mà phải vươn cao hơn.

Trước Cách mạng, Nguyễn Công Hoan tiếp thu khá tốt truyền thống thơ ca của dân tộc và những truyện cười dân gian. Nhưng chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đòi hỏi dân gian mà phải trí tuệ, dân tộc mà phải hiện đại. Trong quá trình chuyển hoá, một số nhà văn hiện thực phê phán đã không giải quyết được tốt yêu cầu này của phương pháp sáng tác mới. Cho nên khi dựng những cảnh ngắn sinh động như trong cuộc đời thật, họ thường thành công hơn khi viết một truyện dài hoặc xây dựng những tiểu thuyết có quy mô lớn đòi hỏi một trình độ tổng hợp và khái quát cao.

*
*   *

Nguyễn Công Hoan là người có công khai phá, mở đường cho chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam và góp phần đặt nền móng cho văn xuôi hiện thực với một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Những thành tựu sáng tác vẻ vang đó trước Cách mạng tháng Tám đủ khẳng định ông là một nhà văn xuôi lớn của dân tộc. Năm 1963, nhìn lại bước đường đi và sự nghiệp lớn của một bậc đàn anh đáng kính, nhà văn Tô Hoài viết:
"Nếu ta nhẩm từ cái hồi mà lời văn bổng trầm khóc đứng khóc ngồi đến thời kỳ văn chương sạch sẽ kiểu "Tự lực", thì lực lưỡng như một tay đô vật không có địch thủ từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện ngắn, truyện dài Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo, Ba Vì hùng vĩ, vượt qua cả hai thời kỳ, tiến vào Cách mạng tháng Tám".
Nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan đã trở thành những tác phẩm văn học "cổ điển” trong chương trình của các trường phổ thông và đại học. Nguyễn Công Hoan đã gây được một ảnh hưởng sâu đậm đối với những thế hệ văn xuôi về sau như Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyễn Khải, Chu Văn...

Những tập bút ký, những tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan sau Cách mạng tháng Tám đã góp phần bổ sung, hoàn chỉnh thêm bức tranh xã hội và cái tập hợp chân dung của giai cấp thống trị mà ông đã dựng lên trong văn học hiện thực phê phán. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan sau 1954 không phải chỉ có văn xuôi mà nó còn phong phú hơn, toàn diện hơn. Tuy tuổi đã cao nhưng ông vẫn lao động không mệt mỏi, đóng góp phần tích cực của mình vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong sự nghiệp chung của dân tộc.

Nguyễn Công Hoan đã viết đều cho các báo, tạp chí (Văn nghệ, Tác phẩm mới (Tạp chí Văn học) và các Nhà xuất bản (Văn học, Tác phẩm mới). Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, ông còn cộng tác mật thiết với ban địch vận của quân đội, thường xuyên có bài trên Đài phát thanh, nói chuyện với đồng bào, đồng nghiệp trong cách thành thị còn bị tạm chiếm ở miền Nam. Nguyễn Công Hoan là người đã theo dõi, đã chứng kiến nhiều sự kiện xã hội, chính trị và văn học những năm đầu thế kỷ XX; từ khi còn là học sinh, ông đã rất say mê truyền thống văn học trào phúng của dân tộc. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Công Hoan đã viết được nhiều tiểu luận nghiên cứu có giá trị về Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thiện Kế, Tú Xương, Tản Đà, Tú Mỡ, trong đó đáng chú ý nhất là những bài Con người Tú Xương, về cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến.

Những bài hồi ký, biên khảo của Nguyễn Công Hoan, mặc dầu có những điểm còn phải trao đổi bàn bạc thêm, nhưng đã cung cấp cho người đọc những nhận định, những tư liệu quý để khắc hoạ một chân dung văn học (Tản Đà, Tú Mỡ), xác định một văn bản, một tiểu sử, một chi tiết về phong tục sinh hoạt của xã hội Việt Nam thời trước. Vốn là người hiểu biết khá rõ về gia đình các nhà nho và từng lớp quan lại Bắc Kỳ hồi đầu thế kỷ, nên ông có khả năng đính chính xuất xứ và chú thích các bài thơ rất tốt. Qua những bài viết về Nguyễn Khuyến, Tú Mỡ, ta thấy Nguyễn Công Hoan còn làm thơ trào phúng và hiểu biết về thơ khá sâu sắc.

Trong Hội nhà văn, Nguyễn Công Hoan là một nhà văn thuộc lớp anh cả, lại là một cây bút bực thầy, nhưng ông vẫn khiêm tốn viết hàng loạt bài phỏng vấn các đồng nghiệp để khéo léo giới thiệu kinh nghiệm sáng tác cho thế hệ trẻ (Hỏi chuyện các nhà văn). Ông khuyên các nhà văn trẻ phải "giữ vững bản sắc dân tộc", "cố gắng dùng cho hết tiếng nói Việt Nam", "dùng cho đúng lối nói Việt Nam". Muốn thế phải có một vốn ngôn ngữ giàu có, phải luôn luôn "học" quần chúng để hiểu biết tiếng mẹ đẻ. "Tôi rất lấy làm xấu hổ vì mang tiếng nói là người viết văn, tôi chưa biết hết nghĩa của tiếng nói Việt Nam. Nhất là những nghĩa của phương ngôn, tục ngữ. Và tôi chưa tận dụng được tiếng nói và lối nói đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Ví dụ thế nào là Con dao hai, con dao ba, thế nào là vớ cọc chèo. Nguyễn Công Hoan đã cộng tác với các cơ quan khoa học xã hội trong việc soạn từ điển và ngữ pháp Việt Nam. Nhờ vốn hiểu biết sâu sắc về xã hội cũ mà trong các bài viết về ngôn ngữ, ông có biệt tài khi xác định từ nguyên của các chữ và đính chính lại một số phương ngôn, thành ngữ bị hiểu sai nghĩa.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan phong phú nhiều mặt. Những tác phẩm của ông không những được bạn đọc trong nước hâm mộ, yêu mến mà còn có tiếng vang rộng khắp ở nước ngoài. Nhiều truyện của ông đã được dịch ở Liên Xô, Bungari, Hunggari, Anbani, Cộng hoà dân chủ Đức, Cu Ba, Ba Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản...

Nhà nước ta đã tặng thưởng nhà văn Huân chương Lao động hạng nhất về sự nghiệp sáng tác của ông. Nguyễn Công Hoan là tấm gương của một người đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho sự nghiệp văn học, tấm gương của một nhà văn đã lao động không mệt mỏi suốt nửa thế kỷ, từ khi còn là một học sinh trên ghế nhà trường cho đến lúc đã nằm trên giường bệnh, tấm gương của một nhà văn yêu nước, một ngòi bút chiến đấu vì lẽ phải, không sợ bất cứ một sự đe doạ nào của chính quyền thực dân phong kiến, tấm gương của một nhà văn Cộng sản chiến đấu cho độc lập tự do và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.


(Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Công Hoan
Nxb Văn học, 1983).



NGUYỄN HOÀNH KHUNG - Nguyễn Công Hoan (6/3/1903 – 6/6/1977)


Mời nghe đọc tại Trung Tâm Vì Người Mù Sao Mai - Người đọc: Nguyên Lộc.



NGUYỄN CÔNG HOAN CÂY BÚT HIỆN THỰC XUẤT SẮC
Phần I: Nguyễn Công Hoan - Nhà văn hiện thực lớn, bậc thầy truyện ngắn trào phúng.




NGUYỄN CÔNG HOAN (6/3/1903 – 6/6/1977)

NGUYỄN HOÀNH KHUNG


Nhà văn Việt Nam; một trong những đại biểu ưu tú của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng tháng Tám. Sinh tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng, trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế, bất mãn với xã hội thực dân và bọn quan lại mới. Lúc nhỏ, học ở trường Bưởi; 1922, học Trường cao đẳng sư phạm. Sau khi tốt nghiệp (1926), dạy học cho tới Cách mạng tháng Tám. Bị chính quyền thực dân không ưa, Nguyễn Công Hoan phải đổi đi nhiều nơi: thị xã Hải Dương, huyện Nam Sách, Kinh Môn, thị xã Lào Cai, thành phố Nam Định, Trà cổ... Ông bắt đầu viết truyện từ 1920; 1922, viết những tập Truyện thế gian giúp Tản Đà thư điếm ở Hà Nội. Tập truyện ngắn in đầu tiên là Kiếp hồng nhan (1923). Từ 1930, thường xuyên viết mục Xã hội ba đào ký trên Annam tạp chí của Tản Đà và được dư luận chú ý. Từ đó, Nguyễn Công Hoan sáng tác liên tục vừa truyện ngắn, vừa truyện dài, có mặt thường xuyên trên báo chí và văn đàn công khai đương thời.

Nguyễn Công Hoan có biệt tài về truyện ngắn trào phúng. Đó chính là bộ phận sáng táccó ý nghĩa nhất của ông đối với văn học dân tộc. Tập Kép Tư Bền gồm 15 truyện xuất bản tháng 6 năm 1935, gây một tiếng vang lớn khi đó. Với hàng trăm truyện ngắn trào phúng, ông đã dựng nên bức tranh sinh động về cái xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác, đầy dẫy bất công, giả dối, thối tha đương thời; đả kích không thương tiếc bọn quan lại tàn ác, tham lam, bỉ ổi, bọn địa chủ cường hào keo bẩn, ngu dốt, bọn tư sản vô lương tâm chỉ biết chạy theo đồng tiền và lối sống tư sản lố lăng, đồi bại... Đồng thời, nhà văn thể hiện khá chân thực, cảm động tình cảnh cơ cực của những người nghèo khổ, từ người phu xe, anh kép hát, em bé ăn mày, những "con sen", "thằng nhỏ" ở thành phố... đến người nông dân ở nông thôn, người công nhân ngoài hầm mỏ... Ông đã bênh vực họ khi họ bị xã hội ức hiếp khinh miệt, vu oan giá hoạ. Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939), ngòi bút trào phúng của ông càng sắc bén và mang tính chiến đấu mạnh mẽ. Ở nhiều truyện, nhà văn hướng tới những vấn đề thời sự, chính trị nóng bỏng đương thời, đả kích những âm mưu, chính sách lừa bịp của chính quyền thực dân. Tuy vậy, tiếng cười trào phúng của Nguyễn Công Hoan cũng có khi còn thiếu một nội dung xã hội nghiêm túc. Do chưa có được sự gắn bó thật sâu sắc với nhân dân lao động nghèo khổ nên tuy đứng về phía họ, bênh vực họ, ông vẫn nhìn họ chưa thật chính xác, tin yêu, có khi còn hài hước mỉa mai. Về nghệ thuật, Nguyễn Công Hoan tỏ ra khá già dặn, độc đáo trong thể loại truyện ngắn trào phúng. Ông giỏi phát hiện những tình huống mâu thuẫn đáng cười và có cách kể chuyện thật tự nhiên, có duyên, hấp dẫn, với một ngôn ngữ sinh động, rất gần khẩu ngữ hàng ngày.

Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan còn là tác giả của hơn hai chục truyện dài. Nhìn chung, truyện dài Nguyễn Công Hoan không có giá trị như truyện ngắn của ông. Những truyện viết thời kỳ đầu (Tắt lửa lòng, 1933; Lệ Dung, 1934; Lá ngọc cành vàng, 1935...) thường kể những mối tình éo le, trắc trở, bi thảm; tuy có những yếu tố phê phán xã hội, nhưng chủ yếu được viết bằng phương pháp lãng mạn chủ quan, nhiều tưởng tượng dễ dãi, ít chân thực. Khá hơn cả là Lá ngọc cành vàng, một truyện cảm động, phê phán lễ giáo và bọn quan lại phong kiến tàn ác, khinh miệt người nghèo. Cô giáo Minh (1935) là một tiểu thuyết luận đề mang nặng tư tưởng bảo thủ, chủ trương giải quyết xung đột "mới, cũ" bằng sự thoả hiệp, thực chất là đầu hàng của "phái mới" đối với "phái cũ", trái với giải pháp "đoạn tuyệt" đại gia đình phong kiến để giải phóng cá nhân trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh. Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, truyện dài Nguyễn Công Hoan chuyển mạnh sang khuynh hướng hiện thực phê phán với Ông chủ (1935), Bà chủ (1935), Bơ vơ (1936), Nhật ký cô làm công (1936), Bước đường cùng (1938), Cái thủ lợn (1939)... Ông chỉ đề cập đến chủ đề nông dân địa chủ khá thành công.

Đó là chuyện một tên chủ ấp dâm đãng, quỷ quyệt, tàn bạo, đã bày mưu đặt kế cướp vợ người tá điền nghèo, rồi vợ chồng hắn lại vu oan cho anh, đánh đập anh đến chết.

Bước đường cùng là một tác phẩm đặc sắc viết về nông thôn Việt Nam đương thời, vạch rõ quá trình phá sản không cưỡng được của người nông dân dưới sự áp bức, bóc lột tàn tệ của giai cấp địa chủ phong kiến, đồng thời hé ra con đường đấu tranh để giành quyền sống của họ. Ngòi bút Nguyễn Công Hoan đang sung sức, tiến bộ do tiếp thu được ảnh hưởng của phong trào Mặt trận Dân chủ do Đảng lãnh đạo thì xã hội Việt Nam bước vào một thời kỳ hết sức đen tối. Vốn dễ gần gũi với tư tưởng phong kiến bảo thủ, khi mất phương hướng, Nguyễn Công Hoan đã viết những tác phẩm bảo thủ, lạc hậu, tiêu biểu là Thanh đạm (1942). Thanh đạm lý tưởng hoá một nhân vật quan lại phong kiến xuất thân khoa bảng. Tác phẩm còn thi vị hoá lễ giáo và trật tự phong kiến với cái tôn ti trật tự có tính chất nô lệ, do đó, hạ thấp vai trò và nhân cách nhân dân lao động. Tác phẩm đã bị báo chí cách mạng bí mật và dư luận tiến bộ phê phán.

Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan hăng hái tham gia công tác cách mạng: ông làm Giám đốc kiểm duyệt báo chí Hà Nội, rồi Phó giám đốc Sở tuyên truyền Bắc Bộ. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nhà văn gia nhập bộ đội, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân và Giám đốc Trường văn hoá cán bộ quân nhân của Bộ Tổng tư lệnh, đồng thời, là Chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Sau khi hoà bình lập lại (1953), ông công tác hẳn ở Hội văn nghệ Việt Nam, làm cán bộ Nhà xuất bản Văn nghệ. Khi Hội nhà văn thành lập (1957), ông được bầu làm Chủ tịch Hội khoá đầu (1957 - 1958) và Uỷ viên Ban thường vụ trong các khoá chấp hành Hội tiếp sau đó, đồng thời, là Uỷ viên ban chấp hành Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Công Hoan ít sáng tác, nhưng sau ngày hoà bình, ông trở lại sáng tác đều đặn. 1955, Nguyễn Công Hoan cho in Nông dân và địa chủ, tập truyện ngắn về cải cách ruộng đất. Những ngày tháng Tám ở Côn Đảo và Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn năm 1930 (1960) ghi lại những hồi ức của các chiến sĩ cách mạng và của Chủ tịch Tôn Đức Thắng trong nhà tù Côn Đảo. Nguyễn Công Hoan có ba truyện dài về xã hội Việt Nam trước cách mạng: Tranh tối tranh sáng, (1956), Hỗn canh hỗn cư (1961), Đống rác cũ (mới in tập I, 1963). Với vốn sống phong phú và ánh sáng của nhận thức mới, Nguyễn Công Hoan đã lên án chính sách bóc lột, đàn áp tàn bạo của thực dân Pháp, phát xít Nhật và bộ mặt phản động, xấu xa của bọn quan lại, tư sản, địa chủ, cường hào; đồng thời, đã cố gắng thể hiện vai trò quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản. Nhưng những tác phẩm đó còn có những nhược điểm về tư tưởng và nghệ thuật: chất liệu hiện thực bề bộn chưa được khái quát sâu sắc, các nhân vật chưa thật có sức sống, kết cấu chưa chặt chẽ, nhiều chi tiết vụn vặt, rườm rà, đôi khi sống sượng, đậm tính chất tự nhiên chủ nghĩa, nhất là trong Đống rác cũ. Với sự quan tâm và hiểu biết phong phú về truyền thông văn học và ngôn ngữ dân tộc, Nguyễn Công Hoan còn viết những tiểu luận về Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Thiện Kế, Ngô Tất Tố, Tản Đà... đăng trên các báo chí văn học. Tập hồi ký Đời viết văn của tôi (1971) cung cấp nhiều tài liệu sinh động về đời sống văn học Việt Nam trước 1945.

Nguyễn Công Hoan mất tại Hà Nội, để lại một số bản thảo truyện dài, bút ký, hồi ký, tiểu luận đã hoặc đang hoàn thành. Với hơn năm mươi năm lao động văn học bền bỉ, có mặt trên văn đàn ngay từ khi nền văn xuôi "quốc ngữ" còn non nớt, Nguyễn Công Hoan có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của văn xuôi Việt Nam. Hàng trăm truyện ngắn đặc sắc và tiểu thuyết Bước đường cùng đã khẳng định vị trí hàng đầu của nhà văn trong trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.


(Từ điển văn học, tập II, NXB KHXH.1984)