Ads 468x60px

.

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

Hai bữa cỗ



Minh họa: QUYNH HOA RADIO

Mời nghe đọc
Mời nghe đọc tại - Internet Archive
Diễn đọc: 1. Quỳnh Hoa

Mời nghe đọc tại YouTube - #nguyenconghoan
2 kênh 2 video



Mời đọc Bản đánh máy

Hai bữa cỗ


Nguyễn Công Hoan
(1903-1977)


Tôi có một ông bạn. Ông ấy có hai vợ. Hai bà, mỗi bà một vẻ. Bà Cả thì già, gầy, và do thế, trông như móm. Bà Hai thì trẻ, béo, và do thế, còn bền xuân tình. Song bà Cả có con trai. Bà Hai, tuy chẳng đẻ đái gì, nhưng được cái giầu. Bên hợm con, bên hợm của, cũng như bên tám lạng, bên nửa cân, nên cả hai bà cùng được ông coi ngang nhau, không hơn không kém. Chứ làm thế nào? Yêu bà Hai quá, ông sợ bà Cả bỏ, mất cả người nối dõi tông đường. Nể bà Cả quá, ông sợ bà Hai đi, mất cả mấy chiếc nhà gạch. Mà biết đâu, nếu không đến nỗi thế, tất ông bị cắm sừng một cách lặng lẽ lên đầu.

Song, may cho ông hai bà cùng biết điều, và cùng muốn giữ giá cho ông. Ông làm Tham tá. Thì quan Tham ở tỉnh nhỏ, cũng to lắm, chứ vừa à. Cho nên hai bà không để ông tai tiếng là có hai vợ ghen nhau bao giờ. Cái đó cũng do hai bà ở riêng hai nhà, ít khi gặp nhau. Mà ông thì mỗi bữa ăn với một bà. Buổi sáng, ông sum họp với bà Cả. Buổi chiều, ông thù tạc với bà Hai. Thế là ông khôn khéo lắm, vì cơm xong, ông ngủ ngay đấy.

Bà cả biết mình sức vóc và tuổi tác đáng phải về hưu, nên cũng ngơ chỗ sơ khoáng chức vụ ấy đi cho ông.

Sở dĩ tôi kể lể rềnh rang ra như vậy, vì có một hôm, chúng tôi, tức là bạn ông Tham, ở vào một trường hợp rất khó xử.

Hôm ấy là ngày giỗ cụ ông sinh ra ông Tham.

Hai ngày trước, chúng tôi nhận giấy mời đến ăn cỗ. Mà cả hai bà cùng muốn làm "khổ chủ", vì cả hai bà cùng mời. Bà Cả buổi sáng, bà Hai buổi chiều.

Chúng tôi không biết nên nhận lời bà nào, từ chối bà nào. Thì may quá, lúc anh em đương bàn tính băn khoăn bỗng ông Tham đến chơi. Sau một vài câu chuyện lơ mơ, ông vào đầu đề chúng tôi mới hiểu mục đích ông là đi vận động tất cả mọi người nên vì lạc thú gia đình ông, mà dự cả hai bữa cỗ.

*
*     *

Mười một giờ trưa hôm ấy, chúng tôi kéo nhau đến nhà bà Cả.

Thực là một sự hân hạnh lớn cho bà. Bà cảm động suýt ứa nước mắt. Bà vồn vã, chạy ra đón chào, và gióng giả đầy tớ ra hầu hạ. Bà làm như người chị, săn sóc đến từng em một.

- Lạnh lắm nhỉ. Các bác để tôi bảo nó đốt lò sưởi nhé. Tôi bận tíu tít từ sáng, ở dưới bếp, nên không biết cả rét.

Rồi bà nói chuyện nhà, chuyện cửa, khoe những việc đại lượng với đầy tớ, việc đầy đặn với bạn hữu.

- Ấy thế mà, bà nói, nhà tôi vô tâm lắm, các bác ạ. Các bác xem, nhà tôi có trông nom gì đến gia đình đâu. Thôi bao nhiêu công việc nặng nề, nhà tôi phó mặc cả cho tôi. Giá tôi như người khác, dễ lắm lúc đến uất lên mà chết mất.

Chúng tôi an ủi:

- Vâng, đàn ông chúng tôi thật đoảng. Ai có hạnh phúc được bà nội trợ đảm đang như ông Tham nhà thực là sung sướng.

Ý chừng bà hề hả, nên tiếp:

- Đấy, rồi các bác xem. Các bác sơi cơm với tôi bữa này, để so sánh với bữa chiều xem sao. Tôi chắc rằng một trời một vực.

Rồi giọng mát mẻ, bà nói:

- Cái sang, hẳn đằng ấy sang hơn, vì họ lắm tiền, mượn được bếp tây, bếp khách. Nhưng tôi chẳng biết ngon lành sạch sẽ thì ở đâu hơn.

Chúng tôi bấm nhau, rồi một người đáp:

- Vâng, cái đó cố nhiên, chúng tôi nhận lời bà Hai chẳng qua là nể ông Tham nhà.

Bà cười sung sướng:

- Tôi đoán có sai đâu!

- Bao giờ chúng tôi coi bà Hai như bà được.

- Ồ, cái trò vợ lẽ con thêm ấy mà.

Cơm bưng lên. Thật là thịnh soạn. Không một món nào cao quý mà ở mâm ấy thiếu.

Bà Cả bắc ghế ngồi cạnh, rót rượu ra cốc rồi mời chúng tôi ăn từng món và khoe:

- Mực này đúng là mực Bắc Hải đây ạ. Chả ngày ấy nhà tôi có làm ơn cho một người khách, người ấy mới tạ thứ mực này chứ mua ở hiệu, có khi ta bị mực giả. Mời các bác nếm bát long tu xem.

Bà lấy thìa xúc tiếp từng người. Chúng tôi tấm tắc khen:

- Vâng, quả ngon quá. Đồ ăn quý mà người nấu xoàng cũng mất giá trị.

Bà cười:

- Thế các bác cứ thích lấy vợ đẹp đi. Đẹp người mà không đẹp nết, đẹp người mà không khéo léo chân tay, thì đẹp làm gì. Cô Hai nó nhà tôi chả đẹp đáo để à!

Rồi bà thở dài:

- Đẹp! Ngần ấy tuổi đầu còn đòi cạo răng. Sao mà không biết dơ. Các bác tính giầu tiền giầu của làm quái gì. Có của mà chẳng có con thì của để cho ai. Giầu mà kiệt, mà ăn ở không biết điều, thì giầu làm gì?

- Vâng, chính thế.

- Hạng ấy họ hợm lắm đấy, các bác ạ. Rồi chiều hôm nay các bác mới rõ cái rởm. Tôi ngồi nói với hắn chỉ độ năm phút là thấy bực mình rồi.

- Vâng, cả tỉnh này ai không phục bà.

- Thế thì người đời cũng có tinh mắt lắm chứ. Tôi sống ở đời mà không có đời biết cho thì tôi sống làm gì. Những lúc nguồn cơn chồng con thì nghĩ uất chết đi được.

- Thưa bà, bao giờ trời cũng có mắt, không phụ con người tử tế đâu.

- Có các bác đến chơi nói chuyện ngày hôm nay, tôi thật hả lòng.

Rồi từ đó đến lúc chúng tôi ra về, bà Cả còn nói bao nhiêu chuyện nữa. Mà những câu đáp của chúng tôi chỉ vun vào có một mục đích, là làm cho bà bằng lòng, bởi vì bà là chủ cái mâm cơm ngon lành chúng tôi đương quét sạch sành sanh.

*
*     *

Đến chiều, chúng tôi đến đằng bà Hai.

Chúng tôi lại được tiếp không kém vẻ long trọng:

- Các bác sơi bữa cơm này để so sánh xem bữa nào đáng tiền.

- Vâng, chúng tôi nể bà Cả quá mới gượng nhận lời, thật ra chúng tôi vẫn để bụng ăn bữa này.

Bà Hai cười ha hả:

- Có thế chứ. Tôi đoán có sai đâu. Hắn thì tiền đâu mà làm được cỗ cho nên hồn. Chả bõ mời lại để khách cười cho thối óc!

Bà sai đầy tớ bưng mâm, và mở thứ rượu nho thượng hảo hạng. Mùi đồ nấu đồ xào thơm tho sông lên, làm chúng tôi chảy nước rãi.

- Những món ăn tàu này là tay người bếp tầu làm đây. Hẳn các bác lấy làm khó chịu, vì bát bóng toàn bóng chứ không có tí độn nào đấy nhỉ.

- Thưa thế mới đúng lối ăn tầu.

- Nhưng món bóng ban sáng có nhiều độn chắc ngon hơn.

- Ngon sao được bằng thế này.

Bà hể hả cười, cái cười đắc thắng, rồi tiếp:

- Tôi tính nhiều tiền nhiều của lắm lúc cũng sướng. Thôi tha hồ, muốn sao được vậy. Muốn mời khách ăn cho trân trọng, mà hà tiện đồng tiền thì sao được miếng ngon.

- Vâng.

- Tôi đã bảo hắn, đừng dở dói ra mời mọc. Hắn có nghe đâu. Đấy, hẳn các bác đã thấy rõ bữa nào đáng ăn bữa nào không đáng ăn rồi.

- Vâng, chẳng phải nhìn thấy hai bữa cỗ, chúng tôi mới rõ.

- Mà xưa nay hắn có giao thiệp với ai. Giá các bác không nể nhà tôi, chắc các bác chả nhận lời hắn đâu nhỉ.

- Vâng, chính thế, chúng tôi nể ông Tham nhà quá.

- Người ta ở đời cần phải nhã nhặn, chứ cứ cậy là bà Tham Cả, thì bà Tham Cả đã giết được ai? Tôi chẳng cả với lẽ gì. Người nào cũng là bà Tham, chứ ai kém ai. May được nhà tôi khéo sử, chứ ngữ ấy thì ai nể. Lúc nào cũng khoằm khoặm cái mặt.

- Vâng.

- Mà chẳng biết đối với đứa ăn đứa ở thế nào để chúng nó kêu tệ.

- Vâng quyết rằng thế.

- Cứ lấy nê có con với nhà tôi. Các bác tính tôi còn trẻ, còn đẻ chán.

- Vâng, có người mãi mới đẻ, mà lúc đẻ thì sòn sòn năm một.

- Nhiều người thế chứ.

- Vâng.

Cũng như buổi sáng, chúng tôi phải đóng vai nịnh thần thủ động để lấy lòng người mời mình ăn. Mà bà Hai thì mỗi lúc lại tin và quý chúng tôi hơn. Đến nỗi bà nói:

- Trước tôi cứ tưởng các bác theo thói cổ, trọng cả khinh lẽ, giờ mới hiểu rằng các bác thực biết người.

- Vâng.

- Ấy, ở đời, chỉ hả hê được có lúc người đời biết cho mà thôi. Chứ cứ những nỗi chồng bạc bẽo, tôi tưởng muốn chết quách đi cho rồi.

Câu chuyện cứ một điệu như thế, kéo cho đến lúc chúng tôi buồn ngủ. Mà khi chúng tôi cáo từ, bà Hai còn nằng nặc mời ở lại và phàn nàn thì giờ chạy quá nhanh.

Nhưng khi ra khỏi nhà, chúng tôi thấy hình như thoát nạn, và cầu trời cho ông bạn tham biện chúng tôi đừng tham nữa mà lấy đến cô vợ thứ ba.


Nguyễn Công Hoan

Đăng trên Tiểu Thuyết thứ bảy, số 292, ngày 6 tháng 1 năm 1940.



Mời đọc Bản chụp dạng ảnh

Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Số 292, 6 Tháng Một 1940

Vừa láo vừa bướng



Minh họa: Tiểu Thuyết Thứ Bảy

Mời nghe đọc
Mời nghe đọc tại - Internet Archive
Diễn đọc: 1. Cô Vân

Mời nghe đọc tại YouTube - #nguyenconghoan
1 Kênh 2 Video

Mời đọc Bản đánh máy

Vừa láo vừa bướng


Nguyễn Công Hoan
(1903-1977)


Tôi đến trường, thấy các bạn đồng nghiệp đã gần đông đủ cả. Sáng nay, hình như có việc gì quan trọng đương bàn tán thì phải. Các ông giáo súm quanh ông hiệu trưởng. Ông này thì có vẻ băn khoăn.

Tôi vội rảo bước tới, và thoạt nghe, tôi hiểu ngay là câu chuyện hôm nọ, câu chuyện nộp đơn thi sơ học Pháp-Việt. Độ ấy đã gần hết tháng Avril. Ông Sinh, giậy lớp nhất, quả quyết với ông hiệu trưởng:

- Đích là nó không đỗ sơ học yếu lược. Từ năm kia, ta đã sơ ý cho nó lên lớp nhì. 

Ông Mạnh, giậy lớp nhì năm thứ nhất, cau mặt, chống chế:

- Việc đó, tôi biết đâu. Tôi thấy hôm khai trường, ông Thận dẫn học trò được lên lớp vào buồng tôi, tôi yên chí chúng nó đỗ cả.

Ông hiệu trưởng cau mặt:

- Đành vậy, nhưng rồi khi phát bằng, ông cũng nên soát lại cẩn thận xem có đứa nào thiếu giấy má gì không. Nhưng lỗi đó ở ông Thận hơn, vì giậy lớp ba, ông phải biết học trò thi sơ học, đứa nào đỗ, đứa nào trượt.

Ông Mạnh nhìn ông Thận:

- Kìa, ông trả lời đi!

Ông Thận cười, lên tiếng:

- Học trò thi đỗ hay không, cái đó thầy giáo không thể lấy gì làm chứng để biết đích sác. Vì mãi tận gần tết nó mới được lĩnh bằng. Vả lại kỳ thi, tôi không được dự, mà tờ yết tên thí sinh trúng tuyển dán trên bảng độ mươi phút là bị có người bóc đi ngay. Cho nên hôm sau vào lớp, tôi hỏi học trò, ai đỗ ai hỏng, thì tin ở miệng chúng nó mà thôi. Thằng Vũ nhận là đỗ, thì tôi yên chí là nó đỗ.

Ông hiệu trưởng quay lại ông Sinh:

- Thế hôm qua nó nói với ông là có đỗ mà không có bằng?

- Vâng.

Ông Mạnh sua tay:

- Vô lý. Nó nói dối. Tôi nghe bạn nó kháo nhau hình như nó không đỗ đâu.

Ông hiệu trưởng gật đầu:

- Được, tôi đã nhờ ông thư ký truy trong sổ thi năm ấy. Ông Thận tặc lưỡi:

- Nếu nó không đỗ sơ học yếu lược, tội nó đáng phải đuổi.

Ông Sinh cười:

- Giữ nó lại ở trường làm gì. Không có bằng ấy, thì về sau nó thi cử gì được nữa.

- Nhưng cứ đuổi và chua vào học bạ cớ nó phải đuổi, để trường khác đừng nhận thằng học trò dối trá ấy.

Ông hiệu trưởng quay lại:

- Thằng Vũ này học hành và hạnh kiểm ra thế nào?

Ông Sinh gật gù:

- Kể nó vào hạng trung bình, nhưng dễ thường nó cũng hay dối dá thật.

Ông Thận thêm vào:

- Ồ, thằng ấy láu ra mặt, phải đuổi là đáng đời.

Vừa lúc ấy, ông Thìn thư ký kiểm học đi vội vàng từ buồng giấy tới;

- Tôi tìm lại rồi, vẫn không thấy tên nó.

Ông hiệu trưởng gặng:

- Hay nó đỗ năm trước?

- Nếu nó đỗ năm trước thì nó phải lên lớp nhì năm trước chứ! Tôi giở cả sổ sách mấy năm, chẳng thấy đứa nào tên là Vũ cả.

Ông hiệu trưởng châm thuốc lá hỏi ông Mạnh:

- Ông vừa bảo bạn nó nói là nó thi không đỗ.

- Vâng.

Ông Sinh bực mình:

- Thế thì thằng ấy láo thật.

Ông hiệu trưởng quay lại ông thư ký:

- Nhờ ông xem kỹ lại, hoặc nó không đỗ ở hội đồng thi đây, nhưng đỗ ở nơi khác chăng

- Tôi tìm cẩn thận lắm rồi. Tôi lục các sổ sách ngay từ tuần lễ trước, khi ông Sinh dục học trò lấy đủ giấy má, thì thằng Vũ đã đến hỏi tôi. Tôi lại tìm khắp cả các hội đồng thi trong tỉnh, và rất kỹ. Mà hôm nay tra lại nữa là lần thứ hai.

Ông hiệu trưởng ra ý nghĩ ngợi;

- Việc này cũng lỗi ở ta, vì ta sơ xuất mà nhận vào trường một đứa không đỗ đã ba năm nay mà ta không biết...

Ông Sinh ngắt lời:

- Nhưng ta cho nó học nữa cũng vô ích. Tôi tưởng đuổi nó là phải, vì nó đáng tội.

- Đành vậy, song ta đuổi nó vì tội gì?

- Tội nó nói dối.

- Nếu nó nói dối, sao bây giờ ta mới biết. Vậy lỗi cả ở ta. Lỡ đến tai nha học chính, lúc ấy ta trả lời thế nào cho trôi được.

Ông Quang từ nãy vẫn đứng yên, mới cau mặt, và ra giáng thành thạo, lầu nhầu:

- Làm hiệu trưởng mà tống cổ một thằng học trò nhép cũng phải đắn đo. Nó là kẻ dưới, khép nó tội gì không được! Tôi tưởng ông cứ biên phăng vào học bạ nó là lười và hạnh kiểm xấu!

Ông hiệu trưởng nhìn ông Sinh để hỏi ý, ông này lắc đầu:

- Nhưng bài ngày thường và bài thi nó khá. Nó lại không bị phạt về hạnh kiểm bao giờ.

- Ồ cứ biên là lười và hư thì đã làm sao! Ai biết đâu! Dễ nó dám đi kiện hắn.

.............................................................

Ông hiệu trưởng trầm ngâm, rồi dặn:

- Ông Sinh ạ, chốc nữa ông giảng cho nó tin là nó có tội vì không có bằng mà dám lên lớp. Như vậy, để nó chịu là nó đáng phải đuổi. Song ông bảo rằng nhà trường nhân nhượng, không muốn ghi cớ xấu ấy vào học bạ mà đuổi nó để nó sẽ bị hại suốt đời. Nên ông khuyên nó xin thôi học. Như thế nó sẽ được êm thấm hơn.

Ông Sinh cười ha hả:

- Kế ấy thật hay, êm thấm cả cho nhà trường nữa.

Mọi người cười ồ, hình như được nhẹ nhõm, vì vừa giải quyết xong một vấn đề khó khăn.

*
*      *

Nhưng hôm ấy, Vũ không đi học. Nó viết giấy cho thầy giáo, xin phép nghỉ ba ngày để lên Hà Nội, hỏi cha mẹ xem có cất bằng của nó không.

Thế là việc bài trừ một tên học trò gian dảo đành phải chờ hôm khác.

Ông Quang vẫn cương quyết:

- Cứ tống cổ phăng nó đi là xong! Có từ đây lên Hà Nội nó cũng xin phép ba ngày. Nó chả lười là gì. Ông Sinh bênh học trò, mà ông hiệu trưởng quá nhu nhược! Phải tay tôi, tôi không cần bàn tán lôi thôi.

*
*      *

Ba hôm sau, ông Sinh mách ông hiệu trưởng:

- Ông ạ, sáng nay thằng Vũ có đến trường, nhưng vì thấy bạn bè nó mách rằng sẽ phải đuổi, nên nó không dám vào lớp.

Ông Quang đắc chí:

- Thế thì đuổi nó về tội nghỉ không xin phép.

- Nó lại có xin phép để đi nhà thương và thầy thuốc biên là sốt.

Ông Quang bĩu môi, lắc đầu:

- Thằng này chí trá thật, suy những việc này thì biết quả nó có tội, nên nó sợ. Oắt con mà đã cáo già rồi!

*
*      *

Sáng hôm sau, ông hiệu trưởng vò đầu vò tai phàn nàn với chúng tôi:

- Vừa có giấy nha học chính hỏi về việc bằng thằng Vũ.

Nói đoạn, ông đưa bức thư đánh máy cho mọi người, rồi nói:

- Khó nghĩ quá, nó cứ quả quyết là có đỗ, và chưa được bằng:

Ông Quang trợn mắt:

- Thằng Vũ dám lên tận học chính? Ranh con gớm thật!

Ông Thận lắc đầu:

- Không, đây chắc là thầy nó.

........................................................

Ông hiệu trưởng tặc lưỡi:

- Nếu nó không đỗ thật thì nha học chính chỉ biết đổ lỗi cho mình chứ biết đâu đến nó.

Ông Sinh bàn:

- Hay là nhờ ông Thìn tìm kỹ lại lần nữa xem. Nó quả quyết rằng đỗ, và cha nó dám làm đơn nói là nó đỗ, thì ngộ ông Thìn sơ ý không viết bằng cho nó chăng.

- Ông Thìn tìm hai lượt rồi mà.

- Đành vậy, nhưng vì có giấy này, thì nhờ ông ấy lục soát kỹ lại nữa, rồi ta sẽ kiếm cách trả lời sau.

*
*      *

Giờ ra chơi hôm ấy, ông Thìn đi nhanh như chạy, từ buồng giấy đến trường. Thấy mặt ông hớn hở, chúng tôi biết ngay là có một tin gì mừng. Ông nhoẻn miệng cười bằng cái cười hơi nhạt:

- Nó có đỗ, nó có đỗ thực. Tờ danh sách biên tên nó không biết ai xếp lẫn trong tập biên bản, nên hai lần tôi không tìm ra.

Ông hiệu trưởng vui sướng:

- Ồ! Thế chứ lị!

*
*      *

Nếu câu chuyện mất bằng này có đến đây là hết, thì nó không đáng kể. Nhưng vì nó đã làm sôi nổi không khí nhà trường trong ngót một tuần lễ, nên rồi chúng tôi bàn đi tán lại, định đổ lỗi cho Vũ đã đánh mất bằng. Ông Quang, ông Sinh ông Thận, ông Thìn tức lắm. Nhất là ông Quang. Ông bảo ông Sinh gọi ngay "thẳng oắt con mà đã cáo già" ấy đến để ông xem mặt. Ông hỏi Vũ vài câu về chuyện dám viết lên nha học chính, rồi trừng mắt:

- Mày không biết sợ ai cả!

Ông Thận nhíu lông mi:

- Như vậy, mày hỗn láo lắm!

Ông Sinh hầm hầm, trỏ tay:

- Mày đi học mà dám bướng bỉnh!

Ông Quang sỉ vả:

- Mày vừa láo vừa bướng, liệu hồn!

Rồi ai nấy mỗi người một câu, xâu xúm lại thằng "ranh con", riếc móc mãi nó là láo và bướng.

Vũ cúi mặt, không dám đáp. Nó rơm rớm nước mắt:

Có lẽ nó không hiểu làm thế nào để vừa khỏi mang tiếng là bướng và láo, vừa khỏi thất học, tai hại một đời.





Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Số 289, 16 Tháng Mười Hai 1939

Cái nạn ô-tô (3)



Minh họa: Tiểu thuyết thứ bảy

Mời nghe đọc
Mời nghe đọc tại - Internet Archive
Diễn đọc: 1. L&H

Mời nghe đọc tại YouTube - #nguyenconghoan
1 kênh 1 video


Mời đọc Bản đánh máy

Cái nạn ô-tô (3)

Nguyễn Công Hoan
(1903-1977)


Người bán vé xếp cho tôi một chỗ ngồi ở dãy ghế thứ hai, cạnh một bà. Tôi ngần ngừ, mãi mới nhận cái hân hạnh ấy. Làm thế nào được. Hàng trên và hàng dưới, ghế nào cũng chẵn bốn người. Mà mỗi hàng ghế trong xe ô-tô đã ấn định là bốn chỗ. Chẳng phải tôi cuồng dại, không ưa ngồi cạnh đàn bà. Song, vì đi xe ô-tô hàng lâu năm, nên tôi thấy rằng có khi ngồi cạnh đàn bà là một sự gỡ gạc, mà cũng có khi ngồi cạnh đàn bà là một cái nạn.

Bà láng giềng tôi ước ngoài bốn mươi. Cái tuổi ấy là cái tuổi bị thải. Gia dĩ bà lại béo. Cả người bà là một đống thịt có thể làm bẹp những díp bánh xe cứng nhất. Bà phóm phém nhai trầu, thỉnh thoảng đặt hộp bạc xuống đệm, chống tay, thò đầu qua mặt tôi để ghé miệng ra ngoài, nhổ toẹt một bãi đỏ ngòm vào đường nhựa. Luôn luôn bà dục xe chạy, vì nhất định bà bảo là đến giờ rồi.

Bỗng một chiếc xe cao su ở đằng xa chạy lại, đặt khách xuống cạnh ô-tô.

Một bà ra giáng vội vàng, đến gần người bán vé, nhờ xếp cho một chỗ.

Người làm xe chối từ, song, vì bà khách chỉ đi có một quãng gần, lại chịu trả tiền suốt chuyến nên được chở.

Người bán vé nhìn vào trong xe, lấy nghĩa chữ đồng bào nói ngọt với khách dãy ghế tôi để bà mới đến nhờ tạm một chỗ.

Thế là tôi ngồi giữa, hai bà hai bên. Mà bà mới lên này trông chừng cũng không thể cho ai gỡ gạc tiền vé được.

Xe chạy.

Lúc bấy giờ vào khoảng giữa trưa. Hành khách đi ô-tô ca toàn hạng phong lưu, nên ai cũng nhớ giấc ngủ sau bữa cơm vừa làm nặng dạ dày.

Xe bon chạy, nhẹ như bay. Tiếng nói thưa dần. Nhiều người đã gật gù ngủ. Tôi mơ màng, thiu thiu buồn...

Bỗng một tiếng nói ở cạnh tai làm tôi sực tỉnh:

- Quái, tôi trông bà quen lắm, hình như tôi đã gặp bà năm ngoái trong nhà quan phủ Tảo.

Bà ngồi bên trái tôi nói thế, thì bà ngồi bên phải đáp:

- Vâng, tôi cũng ngợ quá, mà không dám hỏi. Thưa bà, có phải hồi năm ngoái bà về chơi quan phủ, đi xe với cụ Thượng Trần không ạ?

- Vâng.

- Ồ, bẩm thế, kìa bà lớn!

- Thế tôi ngồi gần bà lớn mà không biết.

Hai chuỗi cười mừng nhau thực giòn và thực to chui vào tai tôi như muốn xé màng trống.

Mấy người ngồi ghế trước đỏ ngầu mắt quay lại nhìn. Nhưng hai bà vẫn vui vẻ, nói rất to để trò chuyện:

- Bẩm thế quan lớn nhà vẫn ở Hà Nam?

- Vâng, cảm ơn bà lớn, nhà tôi vẫn ở Hà Nam. Bẩm còn quan lớn nhà?

Bà này chép miệng, lắc đầu: 

- Cuối năm vừa rồi trượt cái bố chánh, tức cả mình. Nhà nước không công bình ra sao, chứ nhà tôi, làm việc quan thực là cần mẫn, đê điều thì vững, cướp trộm thì không, sân vận động cũng có, mà rất năng đi lại các quan trên, thế mà không biết vì lẽ gì lại không được thăng. Thế quan lớn nhà thăng bao giờ ạ?

- Thưa bà lớn, nhà tôi mới được thăng kỳ xuân thủ năm kia.

- Ồ, quý hóa nhỉ. Mời bà lớn xơi trầu.

Hai bà im một lát, rồi bà bên trái lại cất giọng the thé:

- Bẩm bà lớn đi đâu thế ạ?

- Thưa tôi mới xuống chơi với cậu chánh án nó, chả là cậu cháu sắp cho cháu cả nó đi Tây học mà. Cậu cháu cứ giữ mãi, nhưng tôi nóng ruột quá. Bây giờ về thăm chú huyện cháu, rồi lên thăm bà Bố Tín trên Hà Nội. Thế bà lớn đi đâu?

- À, chả anh phủ tôi yếu, tôi lên thăm.

- Bây giờ quan phủ đã vô sự chưa ạ?

- Cảm ơn bà lớn, cũng đã ăn được.

- À, quan phủ nhà dễ là rể cụ Thiếu Nguyễn đấy nhỉ.

- Vâng, chị chúng tôi là con gái thứ hai cụ Thiếu.

- Bẩm thế cụ Thiếu được mấy các ông các bà ạ? 

- Thưa bà lớn dễ nhiều lắm; tôi chỉ nhớ chị phủ tôi là bà Thương Minh, rồi em chị tôi vừa mới lấy ông huyện Toán năm ngoái.

- Bẩm thế các ông con giai của cụ chưa ông nào ra làm quan ạ?

- Có, cậu con cả mới đỗ cử nhân luật, cũng sắp thi tri huyện.

- Ồ, hạng ấy thì thi thế nào mà chả đỗ.

- Bẩm vâng. À, bà phủ Tảo có phải là em quan Tuần Bích không nhỉ.

- Vâng. Là em con nhà chú. Chứ anh ruột bà phủ làm có tri huyện, nhưng mất sớm.

- Hoài của! Thế quan huyện có con giai không ạ?

- Có ạ, có một đứa, sắp sửa làm rể quan Bố Sửu.

- Ồ, tôi nghe nói quan bố Sửu vừa bán cái ô-tô, phải không ạ?

- Vâng, ngài bán để ngài mua chiếc mới.

- Xe nhà tôi cũng vậy, nhà tôi cũng mới để lại cho quan kiểm học, độ hai hôm nữa mới lấy xe của quan Chánh Án về, nên bây giờ tôi phải đi xe hàng.

- Thế xe nhà tôi thì tài xế nó đau mắt.

- Thật là một dịp may, tôi được gặp bà lớn.

- Bẩm thế cụ lớn nhà lâu nay vẫn mạnh.

- Cảm ơn bà lớn, cụ nhà tôi vẫn như thường, thỉnh thoảng đổi thời tiết thì hơi khó ở, nhưng cũng qua loa thôi.

- Cụ tôi cũng thế. Các cụ già rồi.

- Nhưng cụ lớn nhà còn mạnh hơn cụ tôi nhiều. Cứ kể vào tuổi các cụ, thì cụ nhà hơn nhất, chứ cụ Thiếu Đồng Xuân, cụ Hiệp Mễ, cụ Án Bắc Xa, cụ thì lòa, cụ thì móm, chả cụ nào được toàn vẹn.

- Ồ, cụ tôi được tẩm bổ nhiều, chứ cứ trận yếu năm kia, chúng tôi đã tưởng nguy. Quan Tuần Dương đến thăm đã phải lắc đầu.

- À, quan Tuần Dương thật là sung sướng đủ điều. Các ông em, ông nào cũng làm quan, nay cô con gái đầu lòng lại sắp lấy kế quan huyện Thạch.

- Vâng, tôi nghe nói đâu cuối năm thì cưới. Có phải bà huyện Thạch trước là con gái cụ Thương Nam Lý không ạ?

- Phải đấy ạ.

- Nếu thế thì có họ với cụ Đốc trong Sủng đấy nhỉ.

- Vâng, thưa bà lớn, họ ấy là đại gia, mà còn đương phát. Mới rồi được thêm một ông đỗ tri huyện tư pháp.

- Với con cụ phủ đỗ bang tá nữa.

- À phải, mà ông Phán Ninh mới được đi Trợ tá ngày đầu năm. Kể nhà tôi cũng hơi có họ với ông Trợ Ninh.

- Bẩm họ thế nào ạ?

- Bà Trợ Ninh chả là cháu của cụ Bố bà tôi mà...

- À, tôi hiểu, thế là đôi cháu dì họ đấy.

- Vâng.

Rồi hình như để nghĩ thêm chuyện, hai bà ngồi yên lặng.

Tôi như được tạm tha. Bỗng bà ngồi bên phải ghé cổ lên ghế trên.

- Bác tài đến Nứa đỗ lại cho tôi xuống nhé.

Lúc ấy tôi có ý nhìn, bao nhiêu hành khách không ai ngủ nữa. Hình như họ bị mất ngủ vì cùng phải nghe chuyện như tôi. Tuy chuyện riêng, xong hai bà có nói bé đâu.

Bà ngồi bên trái hỏi:

- Bẩm bà lớn, thế từ Nứa vào còn độ bao nhiêu nữa ạ?

- Còn độ hơn một cây, nhưng chú huyện cháu có cho lính và xe nhà đi đón.

- Thế bà lớn làm ơn nhớ hộ tôi có lời hỏi thăm quan huyện bà huyện nhé.

- Vâng, cảm ơn bà lớn. Quan lớn tôi cũng có lời hỏi thăm quan Phủ nhà.

- Đa tạ bà lớn. Đến cuối năm quan huyện Thạch cưới vợ, tất bà lớn với tôi lại được gặp nhau.

- Vâng, chắc thế, mà ta còn gặp nhiều chị em nữa.

- Thôi, xin phép bà lớn, đến Nứa rồi. Lạy bà lớn.

- Lạy bà lớn ạ.

Xe đỗ. Hai bà từ biệt nhau, nhìn nhau ra ý bịn rịn.

Rồi xe chạy.

Hành khách được yên. Nhưng không ai ngủ lại được. Duy có bà lớn buồn tình vì mất bạn. Bà ngồi im một lúc rồi gật gà gật gưỡng, tự do ngả cả đầu lên vai tôi làm một giấc ngon...






Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Số 286, 25 Tháng Mười Một 1939

Chừa thuốc phiện


Mời đọc các truyện ngắn về "làng bẹp":
1. Giết nhau - 1933
2. Mưu làng bẹp - 1938
3. Chừa thuốc phiện - 1939


Minh họa: Tiểu thuyết thứ bảy

Mời nghe đọc
Mời nghe đọc tại - Internet Archive
Diễn đọc: 1. Cô Vân

Mời nghe đọc tại YouTube - #nguyenconghoan
1 Kênh 2 Video

Mời đọc Bản đánh máy



Chừa thuốc phiện


Nguyễn Công Hoan
(1903-1977)


Lần này, San lại định chừa hẳn. Anh quả quyết, bảo vợ:
- Tôi chỉ hút hết tuần lễ này. Từ thứ hai sau tôi nhất định thôi.

Vợ San bĩu môi:

- Lậy Phật! Bộ cậu mà chừa được.

San thở dài:

- Thế nào cũng phải chừa. Thuốc phiện càng ngày càng cao, mà rồi còn cao nữa. Nếu tôi không bỏ thì lấy tiền đâu mà hút!

Người thiếu phụ mỉm cười:

- Câu ấy cậu đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, tôi nghe nhẵn cả tai.

San ôn tồn nói:

- Mợ phải hiểu mới được. Lần đầu tôi không chừa nổi, là tại tôi, vì dạo ấy tôi yên trí thuốc còn rẻ. Nhưng lần thứ hai, hẳn là tại mợ. Giá mợ cứ mặc kệ cho thuốc phiện nó vật tôi, thì không, mợ lại thương hại tôi, bắt tôi hút. Chính tôi định kiên gan kia mà!

- Ai trông thấy cậu nằm sóng soài như cái xác chết, không ăn không nói mà cầm lòng cho đậu được!

- Thuộc phiện không thể làm cho người chừa chết được. Nó chỉ làm khổ lúc bữa mình hút. Nhưng nhịn được qua lúc ấy thì thôi, không khó chịu lắm nữa. Chứ nếu tôi cứ đa mang mãi, thì quyết không những tôi chết, mà cả đến mợ cũng chết đói theo!

- Cậu đừng nói trạng. Thế lần thứ tư thì tại ai?

San cười:

- Tại tôi. Song không phải không có duyên cớ. Đành rằng người chừa thuốc phiện phải định bụng bỏ, nhưng cần một điều kiện nữa, là người ấy phải hết hi vọng hút mới được.

Thấy vợ im lặng San tiếp:

- Thuộc phiện quả có ma. Ngày trước có anh nghiện, phải ngồi tù, ở trong nhà pha, anh ta nhịn thuốc phiện một cách rất dễ dãi. Đến bữa hút, tuy anh ta cũng thèm cũng hắt sơi, sổ mũi, song đành phải nhịn, chứ biết làm thế nào. Rồi một ngày, hai ngày, đến một tuần lễ, anh ta quen hẳn đi. Anh ta mừng thầm không ngờ ở tù lại là một hạnh phúc. Vì chắc khi được mãn hạn, anh ta phải béo tốt ra, và rồi không phải lo cơm đen thì chắc có thể làm giầu được. Ấy thế mà, lạ quá, đến ngày được tha, anh ta ra về, vừa bước chân khỏi cửa nhà pha, là anh ta ngã gục xuống, không đi được nữa. Bởi vì anh ta bị thuốc phiện vật liền.

- Phải, anh ta chắc từ nay lại có hi vọng trở về với ả Phù Dung.

- Cho nên mợ phải làm thế nào cho tôi cũng hết hi vọng hút mới được.

- Cái đó chả khó. Nhưng lần này cậu lấy thuốc chừa ở đâu?

- Có người anh em mách tôi cụ lang Ban. Cụ ấy chữa cho ông Bách, ông Hường đều công hiệu cả. Người ta bỏ được, thì tôi cũng bỏ được.

Từ tối hôm ấy, San được vợ cho hút gấp đôi. Hút cho thỏa chí đi, rồi mà chừa, chừa hẳn.

*
*    *

Cụ lang Ban đến nơi, cả nhà chiều chuộng, kính cẩn. Thật là một vị phúc tinh. San gãi tai nói:

- Con mà bỏ được thuốc phiện phen này, thì ơn cụ thật là trời bể. Thày mẹ con mất cả rồi, con xin cụ cho con tôn cụ làm nghĩa phụ, để con được có người mà trả nghĩa sau này.

Cụ lang mỉm cười:

- Ông cứ tin ở tôi. Miễn là ông thực bụng chừa thì rất dễ.

- Con chả thực bụng, sao lần này con dám mời cụ. Nếu con cứ đeo đẳng điếu thuốc điếu sái mãi vào, thì rồi khổ thân.

Vợ San chắp tay thưa:

- Lạy cụ, cụ cứu nhà con tức là cụ cứu cả gia đình này. Nhà con cố mời cụ là do nhà con tin cụ lắm. Con chỉ tiếc không được hân hạnh biết cụ sớm, thành thử mấy lần trước, nhà con chừa phí công toi.

- Được, bà cứ yên lòng, theo thuốc tôi, thế nào ông nhà cũng bỏ được.

San cảm động:

- Dạ, thật là cụ cải tử hoàn sinh cho gia đình con.

- Không dám.

- Mà con thật dày phúc lắm mới gặp được cụ.

- Thế ông định chừa từ hôm nay đấy chứ.

- Dạ.

Bữa cơm thết cụ lang hôm đó thật linh đình. San bắc ghế cạnh sập để ngồi tiếp. Vì thành kính, anh không dám ngồi ngang.

Vợ anh, sau khi nghe theo lời thầy thuốc, cất kỹ bàn đèn vào trong đáy hòm, thì cũng lên đứng cạnh đó để hầu chuyện. Cụ lang nói:

- Chừa bằng thuốc dễ hơn chừa bộ. Tuy có nhiều người bỏ bộ cũng có thể được, song rồi nó sinh ra đến lắm chứng bệnh. Có người kiên gan, đã thôi được đến mười năm, mà rồi lại phải hút, vì tự nhiên da bụng dầy ra, nằm nghiêng bên phải, tưởng chừng cả cái bụng nặng nề nó vật cả về bên phải, mà nằm nghiêng bên trái, thì cái bụng nó vật theo cả về bên trái.

Vợ San lắc đầu, kinh hãi:

- Bẩm thế dùng thuốc của cụ có sẩy ra sự gì không ạ.

San lườm vợ, cho là vô ý, và cau mặt nói:

- Thuốc của cụ là thánh dược. Nếu không, sao ông Bách, ông Hưởng nghiện nặng và lâu như thế còn bỏ được.

Cụ lang gật gù:

- Mà hai ông ấy lại rất non gan. Cứ kể ra từ xưa đến nay, tôi chữa cho mười người thì đậu bẩy. Đến bây giờ ông nào cũng béo tốt, giầu có. Các ông ấy bây giờ đâm ra ghét thuốc phiện lạ lùng. Có một lần tôi thử mời một ông đã chừa được bẩy năm hút lại một điếu xem sao, vì tôi muốn biết thuốc tôi hiệu nghiệm thế nào. Tôi ép mãi, nhất định ông ta không hút. Đến khi tôi cam đoan rằng hễ nghiện lại thì tôi chữa đền, ông ấy mới bất đắc dĩ cầm lấy dọc tẩu. Tôi nhận thấy hình như ông ấy kinh tởm lắm. Ông ấy lấy vạt áo chùi mãi đầu tẩu, rồi mới ghé mớm môi vào, kéo xong một hơi, mẹ ơi, ông ấy ho mãi, rồi khạc, rồi nhổ, rồi nôn, rồi nằm soài ra như người chết. Tôi phải vội vàng cho thuốc rã, ông ấy mới tỉnh lại. Hỏi thì ông ấy nói vì nể quá mới hút, và khi ngậm dọc tẩu vào, ông ấy ghê ghê thế nào ấy. Hút xong, ông ấy say đứ đừ, cứ muốn nôn ọe cho ra hết hơi khói. Thế là tự nhiên mê man đi.

San mừng rỡ, nói:

- Dễ lại sợ thuốc phiện hơn người chưa hút bao giờ đấy!

Cụ lang gật:

- Chính thế.

- Thật là thuốc tiên. Con nhờ cụ, mà không chừa được, thì con chỉ đáng làm giống chó.

*
*    *

Bỗng San bắt đầu ngồi thừ. Đến bữa hút mọi tối rồi. Anh như chán nản, không buồn nói chuyện với cụ lang nữa.

Anh hắt sơi. Mồ hôi đã lấm tấm ở vai và ở cổ. Anh ngáp. Và mỏi lắm. Và lại hắt sơi. Và lại ngáp. Anh hắt sơi liền liền. Và ngáp tưởng chừng rách mép. Biết không thể ngồi tiếp khách được, anh đành thất lễ, nói:

- Xin phép cụ cho con đi nằm, kẻo con mệt lắm.

Cụ lang gật đầu:

- Mời ông cứ tùy tiện.

Trước khi vào buồng, anh dặn vợ dọn chỗ cho khách đi nghỉ:

- Tôi không thể ngồi lâu được, vậy mợ phải đối với cụ cho chu đáo, lễ phép kẻo cụ giận bỏ về thì khổ tôi, khổ cả gia đình đấy.

- Được, cậu cứ yên lòng.

Anh đóng cửa lại, nằm sóng soài trên giường.

Nửa giờ sau, anh thở dài rền rĩ, rồi gượng ngồi giậy. Hai mắt anh ngây dại đứng sững ở giữa buồng, nhìn chăm chắm bộ ghế ngựa sơn quang dầu kê ở góc tường: chỗ ấy mọi khi anh vẫn nằm hưởng thú đi mây về gió. Hình như anh thèm thuồng nhớ nhung lắm. Một lát, anh luống cuống ngó vào trong tủ trè. Nhưng vật thân yêu là cái diện tẩu mà anh định tìm, xưa nay vẫn bày trong đó, không còn ở đấy nữa. Anh cúi ngó xuống gầm ghế. Chai dầu ai cũng cất đi mất rồi. Anh dơ cao cánh tay sờ trên mặt tủ áo. Bàn đèn không giấu ở chỗ ấy. Thất vọng, anh thở dài và không đủ sức lại giường, anh nằm vật thẳng cẳng trên ghế ngựa. Áo anh ướt đẫm mồ hôi. Bây giờ anh không ngáp, không hắt hơi được nữa.

Bỗng anh sờ soạng sung quanh rồi úp sấp mặt dí mũi xuống ghế. Hít được hơi dầu, hơi sái cho đầy lồng xương ngực, anh được khoan khoái lắm.

Rồi tự nhiên anh ngồi nhổm dậy, gọi:

- Mợ ơi!

Vợ anh vội chạy vào. Anh hổn hển hỏi:

- Mợ cất cả bàn đèn đi rồi à?

- Phải. Cậu thấy thế nào?

San nhăn nhó:

- Khó chịu lắm.

Rồi cúi xuống, anh để tay vào cái chân mễ:

- Còn cái tiêm đây, sao không cất đi!

Chị San ái ngại:

- Cậu mê hay tỉnh thế?

Anh nhăn mặt để ợ, nói:

- Không biết có chừa được không, tôi thấy khổ quá rồi.

- Cụ lang bảo buổi đầu thế nào cũng khó chịu lắm. Nhưng cậu nên cứ kiên gan.

San cau mặt, không đáp. Anh chỉ tặc lưỡi. Hình như trong câu nói của vợ, anh thấy có một vài tiếng bất như ý vậy. Một lát, anh giật nẩy mình, rú lên:

- Ối giời ôi, lạy ông, ông tha cho tôi! 

Rồi anh đứng dậy, giơ tay như để đỡ đòn túi bụi và van lơn:

- Lạy ông, ông lang ông ấy sui tôi bỏ, chứ tôi có định bỏ đâu. Ông tha cho tôi.

Rồi anh khóc lóc, đập đầu xuống sàn gạch.

Chị San chạy lại đỡ, gọi:

- Cậu! Cậu! Cậu tỉnh chưa? Làm gì thế?

San mở mắt, nhìn vợ, lóp ngóp đứng dậy. Bất đồ anh hùng hổ chạy lại tủ trè, giơ thẳng cánh đập nắm tay vào mặt kính. Mảnh thủy tinh vỡ vụn ra. Anh ẩy lọ độc bình suýt rơi xuống đất. Cả cụ lang lẫn lũ đầy tớ chạy cả vào buồng. Họ tưởng San còn đập phá lung tung. Vợ anh cuống queo, níu lại:

- Cậu, cậu làm gì thế?

 Anh đáp:

- Bà cứ để yên, tôi đánh chết nó mới nghe.

Rồi nắm cổ tay vợ, anh hiền lành vê vê cố dương mắt nhìn, và nói một mình:

- Ồ, ai đánh sái mà quánh thế này.

Chị San sợ hãi, đập vào trán chồng, gọi:

- Cậu ơi!

- Ơi.

- Cậu mê hay tỉnh?

- Tỉnh.

- Tôi đây mà.

- Biết rồi, mợ ạ, tôi phải hút mới được.

Chị San nhăn nhó, thở dài:

- Đã kiên gan thì nên cứ kiên gan. Gặp cụ lang hay thì hãy thử xem sao.

San cau mặt, tặc lưỡi, chứ không đáp. Cụ lang tiến lại gần, lau đôi mắt kính, nhìn San sám ngoẹt, an ủi:

- Ông cứ cố đi nhé. Không việc gì đâu mà sợ. San hiểu, đáp:

- Thế bao giờ cụ cho con hút?

- Ông chừa kia mà.

- Vâng, nhưng con khổ lắm, cụ ạ.

Cụ lang nghiêm sắc mặt:

- Khổ thì chịu vậy.

San lườm thầy thuốc, rồi nó nhỏ với vợ:

- Cụ lang ác lắm. Còn mợ, mợ nỡ về hùa với cụ lang để làm tội tôi à?

Dứt lời, anh giậm mạnh chân xuống gạch cho đỡ uất ức.

Không ai trả lời cả. Anh lại nằn nì:

- Cho tôi xin bàn đèn, tôi lạy mợ, tôi van mợ. Mợ để tôi hút thì tôi xin làm con mợ.

- Nhảm nào!

- Tôi nói thật đấy. Không cho tôi hút thì tôi quật hết đồ đạc bây giờ.

Cụ lang lại nghiêm trang, trách:

- Đừng dọa. Bà chớ sợ, đã có tôi.

San cau mặt. Rồi bỗng anh vùng dậy, nhẩy lên ngồi ghế ngựa nói to:

- Để tôi hút, không tôi chết mất. Mợ! Lấy trả tôi bàn đèn đây.

Vợ anh sợ hãi:

- Tôi có cất đâu!

- Thế thì chó cất à?

Anh đập chân tay rầm rầm, trỏ vợ, quát:

- Muốn sống thì bưng bàn đèn ra đây.

Chị San run như rẽ, nhìn cụ lang để cầu cứu. Cụ lang giõng giạc gọi:

- Ông phán!

San không đáp, nhưng anh nghiến răng kèn kẹt. Sợ anh thất thố, vợ anh thỏ thẻ:

- Cậu, cụ lang gọi kìa!

San ngọt ngào:

- Cụ bảo nhà tôi trả tôi bàn đèn.

- Tôi không cho ông hút. Ông chừa kia mà.

San nhăn nhó:

- Vâng, nhưng tôi không chừa nữa.

Thấy cụ lang lắc đầu, anh phát cáu, nói:

- Cụ phải cho tôi hút. Mợ phải trả tôi bàn đèn. Tôi không chừa nữa.

Chị San thở dài. Cụ lang ôn tồn khuyên:

- Ông nên kiên tâm.

San hơi gắt:

- Tôi không kiên tâm được.

Nói đoạn, anh nằm, vắt tay lên trán, dằn vặt hai cẳng.

Bỗng anh ngồi nhổm dậy, quát:

- Mợ khăng khăng giữ bàn đèn của tôi phải không?

Chị bực mình, đáp :

- Cậu hỏi cậu ấy, hỏi cụ lang ấy.

San trợn mắt:

- Không việc gì đến cụ lang. Cụ ấy không có phép cấm tôi hút.

- Đừng nói nhảm!

Bỗng San cúi xuống gầm, vớ được chiếc guốc, hùng hổ sông lại vợ:

- Mày có cho ông hút thì mày bảo. Ông chửi bố đứa nào giấu bàn đèn của ông bây giờ.

Dứt lời, anh phang vào mặt vợ một cái, rồi túm lấy áo. Cụ lang sông vào can. Nhưng anh đánh vợ anh túi bụi, rồi tiện tay, và hăng tiết, anh nắm cả tóc nghĩa phụ, dằn xuống:

- Tôi nhờ ông à? Việc đếch gì đến ông. Liệu xác!

Rồi miệng chửi vợ, tay đánh ông lang, anh làm rầm rầm, gầm thét như con sư tử bị tên. Buồng ngủ biến thành bãi chiến trường. Đồ đạc vỡ loảng xoảng. Áo rách soàn soạt. Bọn đầy tớ hết hồn, ù té chạy nhốn nháo.

Kết cục, cuộc chừa thuốc phiện lần thứ tư là: ngay nửa giờ sau, vợ San trả chồng bàn đèn và anh được hút, phải hút gấp đôi mọi bữa cho đỡ mệt.



Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Số 284, 11 Tháng Mười Một 1939


Mời đọc Bản chụp dạng ảnh
Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Số 284, 11 Tháng Mười Một 1939